CHUYỆN
“HỘ CHIẾU” NHẮC NHỞ CÂU NÓI CỦA ĐỨC CHA NGÔ QUANG KIỆT
https://www.facebook.com/ChinhLuanTranTrungDao/posts/pfbid0neMRg6LJGJtmbi837ZyvzKYcYosczT6Xy15toNwbyZGQneqF3P6zLNvXTw6MxTGxl
·
Theo dõi chuyện “hộ chiếu Việt Nam”
không ghi nơi sinh không thể không liên tưởng đến câu
nói của Đức cha Ngô Quang Kiệt, trong cương vị Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Hà
Nội, phát biểu tại cuộc gặp gỡ Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội vào thứ Bảy
20-9-2008. Vì lời phát biểu đó mà năm 2008 đảng mang cả hệ thống tuyên truyền để
đánh phá, trù dập, bêu nhọ Đức cha.
Trong bài
viết dưới đây, người viết không chỉ phân tích riêng trường hợp của Đức cha Ngô
Quang Kiệt mà quan trọng hơn phương pháp “Láo To” (Big Lie) tinh vi và hệ thống
của Đức Quốc Xã và các chế độ CS dùng để đánh gục những ai phê bình hay chống đối
chính sách của đảng.
Chủ trương tái lập hệ thống loa phường cho thấy sự tuyệt vọng, cũ mòn về
phương pháp tuyên truyền của đảng. Trong khi các lực lượng chống độc tài, các
khuynh hướng dân chủ luôn đổi mới, sáng tạo, sinh động và vận dụng mọi tiến bộ
của nền văn minh, các thủ thuật tuyên truyền của đảng gần như không có một điểm
mới nào suốt 47 năm qua.
Nhân sự kiện
hộ chiếu không nơi sinh, mời đọc bài viết về chiến dịch bôi nhọ Đức cha Ngô
Quang Kiệt năm 2008.
AI
PHỈ BÁNG DÂN TỘC?
Joseph
Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc xã, được xem như là một trong những
người áp dụng thành công nhất kỹ thuật vận động quần chúng, có lần đã chỉ thị
cho các cán bộ tuyên truyền của đảng Quốc xã Đức không nên tổ chức các phiên họp
quần chúng vào buổi sáng sớm. Theo Goebbels, vào buổi sáng đầu óc con người
sáng sủa, sinh lực được hồi phục sau một giấc ngủ ngon, nhờ đó mà ý thức phản
kháng của họ rất mạnh. Họp hành vào ban đêm sẽ đem lại nhiều hiệu quả hơn vì
con người mệt mỏi, sinh lực cạn dần sau ngày dài làm việc và do đó khả năng
phân biệt giữa đúng và sai, giữa thành thật và dối trá cũng yếu theo. Bộ trưởng
Tuyên truyền của Đức Quốc xã còn nhấn mạnh: “Nếu nói dối đủ to và cứ tiếp tục lặp
đi lặp lại lời dối trá của mình, quần chúng rồi sẽ tin vào lời dối đó”. Kỹ thuật
tuyên truyền như Joseph Goebbels giải thích, tóm lại, là nói dối đúng lúc và
nói dối nhiều lần.
Một trong
những ví dụ nổi tiếng của nói dối đúng lúc là bản tin về người hành tinh khác đổ
bộ vào nước Mỹ của Orson Welles, đạo diễn của đoàn kịch Mercury Theatre on the
Air, được phát vào ngày 30 tháng 10 năm 1938. Trong lúc đang lôi cuốn người
nghe trên đài phát thanh với vở kịch Chiến tranh giữa các thế giới (The War of
the Worlds) phỏng theo tác phẩm cùng tên của Herbert George Wells, Orson Welles
đã ngưng lại để công bố một bản tin sốt dẻo. Nội dung của bản tin cho biết người
hành tinh khác đang xâm lăng trái đất tại một địa điểm gọi là Grover's Mill thuộc
tiểu bang New Jersey. Trong số gần 12 triệu người nghe bản tin của Orson
Welles, đã có khoảng một triệu người tin rằng người hành tinh khác thật sự đang
đổ bộ tại New Jersey. Thế là, thành phố bị ngưng trệ, xa lộ kẹt xe vì hàng ngàn
người bỏ thành phố để chạy về các khu vực nông thôn, nhà thờ ngưng thánh lễ,
công sở đóng cửa, siêu thị tràn ngập người mua thức ăn để dự trữ cho cuộc chiến
tranh hành tinh khủng khiếp sắp diễn ra. Hẳn nhiên, đó là tin thất thiệt, thế
nhưng vẫn có hàng triệu người tin bởi vì được phát ra đúng thời điểm người nghe
đang bị thu hút vào vở kịch Chiến tranh giữa các thế giới. Việc áp dụng cách
nói dối như vậy được các nhà nghiên cứu về lý thuyết tuyên truyền gọi là những
viên đạn thần thông (magic bullets) của kỹ thuật tuyên truyền.
Ngoài ra,
một kỹ thuật khác được gọi là "big lie", tạm dịch là “láo to”. Kỹ thuật
"láo to" rất xưa nhưng rất hữu hiệu. Một lời nói dối tày trời nếu được
lặp đi lặp lại mãi rồi cũng sẽ có người tin. Một ví dụ quen thuộc với người Việt
về phương pháp "láo to" này là chuyện Tăng Sâm giết người thời Xuân
Thu. Chính mẹ Tăng Sâm còn tin là con mình giết người đừng nói chi ai khác.
Hitler
phân tích kỹ thuật này trong hồi ký Đời tranh đấu của tôi (Mein Kampf): “Láo to
luôn có một mức độ đáng tin cậy nhất định, bởi vì quảng đại quần chúng trong một
nước bị sa một cách dễ dàng vào tầng sâu của bản chất xúc động hơn là một cách
ý thức hay tự nguyện; và do đó, nhận thức sớm nhất của họ đã trở thành nạn nhân
của "láo to" hơn là "láo nhỏ", vì chính họ cũng thường hay
nói dối những chuyện lặt vặt nhưng cảm thấy thật xấu hổ khi phải nói những chuyện
láo tày trời. Việc bịa ra những chuyện "láo to" chưa bao giờ xuất hiện
trong đầu óc họ và vì thế họ cũng không tin là những người khác lại có thể vô
liêm sỉ đến mức có thể bóp méo sự thật một cách xấu xa như thế.”
Mặc dù
Hitler phân tích để phê bình người Do Thái đã “láo to” khi đổ lỗi sự thất bại của
Đức trong Thế chiến Thứ nhất cho Ludendorff nhưng chính đảng Quốc Xã đã tận dụng
kỹ thuật này để tiêu diệt dân Do Thái.
Trong thế
giới cộng sản, từ Lenin, Stalin và hầu hết lãnh đạo các nước cộng sản đã áp dụng
một cách triệt để phương pháp "láo to" như một loại vũ khí nhằm triệt
hạ uy tín đối thủ và tiêu diệt các thành phần đối kháng, các mầm mống chống đảng
trong mọi lãnh vực.
Tuyên truyền
là vũ khí quyết định và cũng là phương tiện sống còn của đảng. Và Việt Nam cũng
không ra ngoài khuôn khổ. Hai kỹ thuật nói dối đúng lúc và nói dối lặp lại thịnh
hành tại Việt Nam từ 1954 tại miền Bắc và từ 1975 trên phạm vi cả nước. Đọc các
tài liệu về Cải cách Ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm, các vụ án chống xét lại… để
thấy rằng, trong hơn nửa thế kỷ qua, những viên đạn tuyên truyền độc ác đã sát
hại không biết bao nhiêu người dân vô tội, trong số đó rất nhiều người yêu dân
tộc, yêu hòa bình và tự do dân chủ.
Mới đây,
những viên đạn tuyên truyền lại nhắm vào đức Tổng Giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt
sau bài phát biểu của ngài tại Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội hôm 20 tháng 9
năm 2008.
Các cơ
quan truyền thông, từ các báo phát hành với số lượng lớn như Lao Động, Thanh
Niên, các đài phát thanh, truyền hình, cho đến trang web của các bộ, các ban
ngành nhà nước, theo chỉ thị của đảng, đồng loạt tố cáo đức Tổng Giám mục đã
“phỉ báng dân tộc” vì ngài “cảm thấy nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam”.
Đảng đã dịch
chữ “hộ chiếu” thành “dân tộc”. Và một lần nữa chiêu bài “bảo vệ dân tộc” lại
được treo lên, những tiếng kèn thúc quân quen thuộc một thời đã đẩy hàng triệu
thanh niên miền Bắc vào cuộc chiến tranh chém giết biết bao người miền Nam vô tội
lại được thổi to lên và những khẩu hiệu đã từng dẫn đường cho bao nhiêu thế hệ
Việt Nam như những con thiêu thân lao vào lò lửa tham vọng bá quyền của Trung Cộng
và Liên Xô được giương cao trên đường phố.
Báo Công
An Đà Nẵng chạy một tít dài: “Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt là người nước nào vậy?”
Tờ Việt Báo (Việt Nam) bình luận: “Ông Ngô Quang Kiệt nên xấu hổ với giáo dân!”
Báo Công An Nhân Dân tố cáo: “Lộ rõ ý đồ xấu của ông Ngô Quang Kiệt”. Báo Hà Nội
Mới nhận xét: “Ông Ngô Quang Kiệt đi ngược lại lợi ích của dân tộc”. Trên trang
web chính thức của chính phủ: “Lộ rõ bản chất xấu xa và tâm địa đen tối” và các
báo khác đã liên tục viết những bài xã luận lên án nặng nề tương tự.
Tôi không
phải là tín đồ Thiên Chúa giáo và cũng không theo dõi một cách chi tiết từ đầu
cuộc tranh chấp Thái Hà nhưng sau khi đọc các bài viết trên báo chí và những ý
kiến mang nặng đầu óc Vệ binh Đỏ trên các trang web trong nước so với toàn văn
bài phát biểu của Đức cha Ngô Quang Kiệt, tôi cảm thấy vô cùng bất nhẫn.
Nguyên văn
câu nói của đức Tổng Giám mục Hà Nội như thế này:
“Do đó, chúng tôi xin nhắc
lại, chúng tôi rất mong muốn xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng tôi
đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt
Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước
mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi
nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam
chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết,
thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính
trọng.”
Nếu tất cả
những người biết đọc biết viết có cơ hội đọc nguyên văn bài phát biểu của Đức
cha Ngô Quang Kiệt và ngồi xuống lắng lòng suy nghĩ về những lời nói tự nhiên
và chân thành của ngài mà tôi vừa trích dẫn, họ sẽ hiểu ra rằng chẳng những đức
Tổng Giám mục không nhục mạ dân tộc mà còn là người có lòng yêu nước sâu đậm.
Câu nói của
Đức cha Ngô Quang Kiệt không có một chữ nào dù trực tiếp hay gián tiếp, dù nghĩa
đen hay nghĩa bóng gọi là phỉ báng dân tộc; ngài chỉ nói lên sự quan tâm của
mình trước một Việt Nam yếu kém, thua sút đối với các quốc gia trong cùng một
châu Á như Nhật Bản, Nam Hàn. Mặc cảm làm người dân của một đất nước bị phân
hóa, hoài nghi, chia rẽ, nghèo nàn, tham nhũng, không được kính trọng mà Đức
cha cảm nhận trong những chuyến đi xa vẫn ngày đêm ám ảnh trong ý thức của
ngài. Đức cha hẳn đã nhiều lần tự hỏi làm sao dân tộc Việt Nam có thể vượt qua
được cái bất hạnh của chính mình để đi đứng ngang hàng với các quốc gia khác.
Nếu không
phải là người yêu nước và biết tủi thẹn với những hy sinh xương máu của tổ
tiên, nếu không mang trong lòng những thao thức về đất nước, Đức cha đã không
buông ra những câu nói đó. Càng yêu nước càng thấy đau cho đất nước, càng yêu lịch
sử hào hùng của tổ tiên càng cảm thấy nhục nhã phải làm người Việt Nam trong thời
đại hôm nay. Và hai điều kiện để có thể vượt qua cái nghèo nàn, yếu kém không
gì khác hơn là “đoàn kết dân tộc” và đưa “đất nước lớn mạnh” như đức Tổng Giám
mục đã phát biểu hôm 20 tháng 9.
Những ai
đang trăn trở về đất nước đều ý thức rằng không có đoàn kết đất nước sẽ không
thể nào lớn mạnh và một đất nước không lớn mạnh sẽ không được thế giới kính trọng.
Nếu không
đúng như thế, hãy chỉ cho tôi một niềm tự hào dân tộc.
Tự hào đã đánh thắng "đế quốc Mỹ"
ư?
Có lẽ đó
là chuyện mà những người có ý thức không ai còn muốn nhắc hay đem ra tranh cãi.
Không phải vì thời gian đã trôi qua hay muốn quên đi quá khứ mà vì ngày nay
sách vở viết về mưu đồ của Trung Cộng và Liên Xô trong cuộc chiến Việt Nam
không còn hiếm hoi như trước. Sự thật về cuộc chiến đã phơi bày một cách chi tiết
về con số bao nhiêu ngàn quân Trung Cộng đã tham chiến tại Việt Nam cũng như
bao nhiêu vũ khí mà các đế quốc cộng sản đã đổ xuống Việt Nam.
Nếu có một
thống kê chính xác, tôi tin số người dân Việt Nam vô tội bị giết bằng súng đạn
của Liên Xô và Trung Cộng vượt xa số người chết do bom đạn Mỹ gây ra, bởi vì
chiến trường diễn ra ở miền Nam chứ không phải miền Bắc.
Thế thì ai
mới đáng gọi là quân xâm lược đây? Nói như thế để so sánh chứ không có nghĩa là
binh vực Mỹ. Đế quốc nào cũng là đế quốc và trò chơi của họ được tính bằng
xương máu của các dân tộc nhược tiểu, trong đó có Việt Nam.
Khi gài
Liên Xô vào chiếc bẫy Afghanistan để trả thù cho thất bại của Mỹ tại Việt Nam,
Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Jimmy Carter, chắc
chắn đã không quan tâm đến số phận của hàng triệu dân Afghanistan sắp sửa chết
dưới bàn tay của Liên Xô xâm lược. Và hai mươi năm sau khi quân đội Liên Xô rút
đi và cả hệ thống cuối cùng đã sụp đổ, Afghanistan vẫn còn là một bãi chiến trường.
Khi chiến
tranh Việt Nam chấm dứt, kẻ ngậm đắng nuốt cay không phải là Mỹ mà chính là
Trung Cộng khi biết rằng đàn em cộng sản mà họ đã tốn bao nhiêu công sức nuôi nấng
từ lúc khó khăn đã quay lưng phản bội đàn anh. Cuộc chiến Việt Nam đã mang
Trung Cộng và Mỹ lại gần nhau hơn và trong trận chiến tranh Việt - Trung năm
1979, để lôi kéo Trung Cộng vào phe chống Liên Xô, các cơ quan tình báo Mỹ đã
cung cấp cho Trung Cộng các tin tức về khả năng quân sự của phía Việt Nam.
Mỹ đưa
quân sang Việt Nam ồ ạt từ giữa 1965 chẳng phải vì chính nghĩa quốc gia. Chính
nghĩa quốc gia, lý tưởng tự do dân chủ là của nhân dân miền Nam, những người đã
sống, chiến đấu và chết trong cuộc chiến tự vệ đầy anh dũng từ 1954 đến 1975.
Có hay không có người Mỹ, nhân dân miền Nam cũng đứng lên bảo vệ các giá trị tự
do mà họ đã chọn lựa và theo đuổi.
Tự hào về giang sơn gấm vóc ư?
Hãy nhìn
ra Biển Đông, hai quần đảo quan trọng về cả quân sự lẫn kinh tế đang nằm trong
vòng kiểm soát của hải quân Trung Cộng. Lịch sử như đang diễn ra theo một chu kỳ.
Sau gần hai thế kỷ ngập chìm trong khói lửa, tương quan kỹ thuật quân sự giữa
Việt Nam và Trung Cộng cũng không khác gì thời quân đội nhà Nguyễn đánh nhau với
liên quân Pháp - Tây Ban Nha. Cái thuở tầm vông vót nhọn đương đầu với súng thần
công và thuyền buồm ghe gỗ đương đầu với tàu chiến được đóng bằng sắt thép lại
tái diễn.
Từ xưa đến
nay, Trung Cộng luôn chọn chiến tranh thôn tính như là phương pháp thích hợp nhất
để giải quyết mọi cuộc xung đột với các nước nhỏ láng giềng. Khi dùng những chữ
“trừng phạt” hay “dạy Việt Nam một bài học” theo giọng điệu của vua quan phong
kiến thời nhà Tống, nhà Minh, trong đầu óc của lãnh đạo Trung Cộng, Việt Nam vẫn
còn là một trong số chư hầu của họ.
Việt Nam
và Trung Cộng có thể vài năm hay vài chục năm nữa rồi cũng sẽ đánh nhau. Tuy
nhiên, nếu chiến tranh nổ ra vào thời điểm này, toàn bộ khả năng quân sự của Việt
Nam có thể bị Trung Cộng vô hiệu hóa trong vòng vài giờ.
Cái may mắn
cho Việt Nam là vị trí của Trung Cộng ngày nay trên chính trường quốc tế không
phải là một Trung Cộng mới bắt đầu chương trình hiện đại hóa vào năm 1979 khi họ
xâm lăng Việt Nam. Trung Cộng ngày nay là một trong những siêu cường quốc hàng
đầu thế giới nhưng đồng thời cũng là một siêu cường quốc dễ vỡ (fragile
superpower) theo giáo sư Susan L. Shirk trong tác phẩm nghiên cứu về Trung Cộng.
Trung Cộng
đang cần sự ổn định để duy trì mức phát triển và chạy đua với các cường quốc
trong G8. Đối tượng cạnh tranh của Trung Cộng là Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Ý, Anh,
Canada, Nga chứ không phải Việt Nam. Một cuộc chiến có tác động quốc tế như năm
1979 có thể không diễn ra trong thời gian trước mắt, nhưng những đụng chạm ở tầm
địa phương sẽ xảy ra liên tục.
Trung Cộng
biết rằng trong một cuộc chiến tranh toàn diện với Việt Nam, dù có thắng về
quân sự thì phần bất lợi kinh tế chính trị cũng nghiêng về phía họ, nhưng đồng
thời họ sẽ không bao giờ để yên cho Việt Nam phát triển. Hải quân Trung Cộng sẽ
tiếp tục bắn giết ngư dân Việt Nam như họ đã làm suốt ba chục năm qua, hạm đội
Trung Cộng sẽ tiếp tục đe dọa hải lưu Việt Nam và lãnh đạo Trung Cộng sẽ ngăn
chặn bất cứ một quốc gia nào hợp tác với Việt Nam để khai thác nguồn dầu khí
quan trọng trong thềm lục địa của Việt Nam.
Việt Nam sẽ
làm gì? Đưa cuộc tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa ra Liên Hiệp Quốc? Liên Hiệp
Quốc là ai nếu không phải là một Trung Cộng có quyền phủ quyết? Cầu viện Mỹ làm
trung gian giải quyết chăng? Đế
quốc không có bạn hay thù mà chỉ có quyền lợi, và với chính sách đối ngoại hàng
hai của Việt Nam hiện nay, cái lợi Mỹ thu về chưa hẳn lớn bằng cái lợi họ có thể
bị mất đi.
Tự hào về quá khứ oai hùng của dân tộc
ư?
Không một
người Việt Nam có ý thức dân tộc nào mà không biết hãnh diện với lịch sử hào
hùng của dân tộc, nhưng đừng quên rằng dân tộc nào cũng có niềm tự hào riêng của
họ. Một nước Bahamas có nền độc lập chỉ mới được ba mươi lăm năm (1973) nhưng
không có nghĩa là người dân Bahamas ít hãnh diện về đất nước họ bằng một người
Việt Nam có hơn bốn ngàn năm lịch sử.
Ngoài ra,
một truyền thống nếu không được kế thừa và phát huy một cách thích nghi với thời
đại thì truyền thống đó sẽ sớm trở thành một thói quen lạc hậu và sẽ chết dần
theo thời gian.
Biết bao
dân tộc vốn đã có một nền văn minh rực rỡ, có truyền thống tốt đẹp từ mấy nghìn
năm trước nhưng các thệ hệ sau đã không biết giữ gìn và phát huy, cuối cùng
cũng đi vào viện bảo tàng, và nếu còn được nhắc nhở chăng cũng chỉ trong giáo
trình của các khoa văn minh hay nhân chủng học.
Tôi chia sẻ
tâm trạng của Đức cha Ngô Quang Kiệt. Tôi cũng có dịp đi khá nhiều, tham dự nhiều
hội nghị, làm việc trong một môi trường nơi các đồng nghiệp đến từ nhiều quốc
gia khác nhau trên thế giới, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ đem chuyện Việt
Nam ra bàn trước với ai và rất khó chịu mỗi khi nghe ai nhắc đến Việt Nam, đơn
giản bởi vì tôi biết sẽ không có câu bình luận nào tốt đẹp theo sau. Việt Nam cho đến hôm nay vẫn còn đồng nghĩa
với chiến tranh, nghèo đói, độc tài.
Có gì đáng
tự hào khi Việt Nam vẫn còn bị xếp vào một trong những nước tham nhũng trầm trọng
trên thế giới. Trong thống kê 2008 vừa được tổ chức Transparency International
công bố, Việt Nam bị xếp vào hàng 121 trong tổng số 180 nước được thăm dò. Phần
lớn những nước đứng sau Việt Nam là các quốc gia Á - Phi nghèo nàn, lạc hậu.
Báo chí Việt Nam đồng loạt đăng tải thống kê như loan báo một tin mừng bởi vì
Việt Nam được tăng hai bậc so với thống kê 2007, mặc dù nước đứng sau Việt Nam
không phải là thứ 122 mà là 126, vì có 5 quốc gia cùng hạng với Việt Nam. Trong
lúc tham nhũng tại nhiều nước trong thế giới phát xuất từ lòng tham có tính
cách cá biệt, tham nhũng tại Việt Nam có tính đảng, từ trong cơ chế mà ra và sẽ
tồn tại cùng với cơ chế.
Làm sao xây dựng một chế độ chính trị
trong sạch khi toàn bộ quyền
hành nằm trong tay một thiểu số người nắm quyền sinh sát cả một dân tộc?
Mỗi khi có
một ý kiến mới không hợp với chủ trương của đảng gióng lên là toàn đảng xúm vào
đánh hội đồng, như vậy thì đất nước làm sao thăng tiến?
Một đức Tổng
Giám mục, lãnh đạo tinh thần của nhiều triệu tín đồ và có một vị trí quốc tế mà
còn bị đối xử như vậy thì một người dân thấp cổ bé miệng ở các thôn làng xa xôi
hẻo lánh sẽ bị đối xử ra sao?
Có người
còn chiêm bao rằng một ngày nào đó Việt Nam sẽ trở thành một Singapore và đảng
Cộng sản Việt Nam cũng sẽ hoạt động giống như đảng Nhân dân Hành động Singapore
(People Action Party, gọi tắt là PAP) với các nhà lãnh đạo tài ba và liêm khiết.
Đó chỉ là một mơ ước hão huyền.
Trứng ngỗng chỉ có thể nở ra ngỗng.
Nguồn gốc
hình thành, cơ cấu lãnh đạo và mục tiêu của PAP hoàn toàn khác biệt so với đảng
Cộng sản Việt Nam. PAP là tập hợp những chuyên gia trí thức Singapore có tinh
thần độc lập dưới sự lãnh đạo của Lý Quang Diệu, một nhà chính trị có tầm nhìn
vượt xa thời đại và đã thắng cử qua một cuộc bầu cử tự do hợp pháp năm 1959.
Các thành phần đối lập tại Singapore thời đó tuy thất cử vẫn hoạt động và tiếng
nói của họ vẫn có một ảnh hưởng quan trọng trong đời sống chính trị quốc gia
trong giai đoạn vừa giành được nền độc lập một cách hòa bình từ thực dân Anh.
Trong lúc
các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam phải sang chầu Trung Cộng hàng năm để
xin súng đạn, Lý Quang Diệu không thấy cần thiết ngay cả việc thừa nhận nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa là một nước có chủ quyền toàn vẹn. Những biện pháp cứng
rắn của chính phủ Lý Quang Diệu sau khi Singapore tách khỏi Liên bang Mã Lai
vào năm 1965 là nhằm bảo vệ sự tồn tại mong manh của hòn đảo nhỏ này và ngăn chặn
sự xâm nhập của cộng sản với sự yểm trợ tích cực của Trung Cộng. Mãi đến tháng
10 năm 1990, khi Singapore đủ mạnh về kinh tế và ổn định về chính trị, Lý Quang
Diệu mới thừa nhận Trung Cộng.
Trong thời
kỳ mà “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” vào Nam “chống Mỹ cứu nước” thì các
nhà lãnh đạo Singapore và nhiều lãnh đạo sáng suốt ở châu Á đã lợi dụng chính
sách chống cộng của Mỹ ở châu Á để hợp tác và phát triển kinh tế, nhờ đó, không
chỉ nền kinh tế Singapore mà nhiều nước nhỏ khác ở châu Á như Nam Hàn, Đài Loan
cũng đã lần lượt cất cánh và trong một thời gian ngắn được thế giới ca ngợi như
là những con rồng châu Á.
Có gì đáng
tự hào khi Việt Nam, một dân tộc có hơn bốn ngàn năm văn hiến nhưng ngoại trừ một
thời gian ngắn ở miền Nam trước 1975, đại đa số nhân dân chưa bao giờ có một cơ
hội để bầu người đại diện cho mình trong các cơ quan nhà nước.
Cuộc chiến
tranh lạnh đã chấm dứt. Sự phân cực thế giới dựa trên ý thức hệ không còn nữa.
Lịch sử văn minh nhân loại được lật sang một chương khác. Hành trình của loài
người đang bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên dân chủ và phát triển toàn diện.
Các quốc gia cộng sản trước đây đã bừng tỉnh sau cơn ác mộng dài và đang hăng
say làm lại cuộc đời. Từ một thời được xem là chư hầu của Liên Xô, các nước
Đông Âu đã trở thành những thành viên kinh tế thương mại và cả chính trị quân sự
quan trọng của cộng đồng châu Âu và thế giới.
Việt Nam
thì sao? Việt Nam là một trong chỉ 5 nước cộng sản của phong trào cộng sản thế
giới còn sót lại, nơi con người sống trong bất an, nơi tất cả những quyền căn bản
mà phần lớn mà nhân loại thụ hưởng đã không được tôn trọng.
Một trong
những chương trình thống kê gây nhiều chú ý nhưng cũng nhiều tranh cãi là thống
kê về “Những quốc gia hạnh phúc nhất trên thế giới”. Cánh chỉ trích cho rằng hạnh
phúc là một trạng thái của ý thức, không thể đem ra cân, đo, đếm và xếp hạng
như các đơn vị vật lý. Cánh ủng hộ cho rằng mục đích thực sự của thống kê không
phải để so sánh giữa một người Đan Mạch và một người Zimbabwe ai hạnh phúc hơn
ai, mà để đánh giá xu hướng ý thức của con người về hạnh phúc chuyển đổi theo
thời gian. Xem xét kết quả 2008 không có ý nghĩa gì nếu không so sánh với kết
quả 2007, 2006 cũng như với suốt 25 năm trước đó. Và theo giáo sư Ronald
Inglehart, người điều hành thống kê World Values Survey trong 20 năm qua, kết
luận sau buổi công bố kết quả thống kê năm 2008: “Nói chung, ý thức toàn cầu
đang gia tăng về tự do trong phần tư thế kỷ qua đã che khuất các lý do thuần
túy kinh tế về hạnh phúc”, và ông cũng tìm thấy quan hệ hỗ tương giữa hạnh phúc
và dân chủ. Giải thích của giáo sư Ronald Inglehart cho thấy hạnh phúc gắn liền
với tự do dân chủ và đó cũng là xu hướng của thời đại.
Giới lãnh
đạo đảng Cộng sản Việt Nam có tật giật mình nên hiểu chữ “nhục” theo nghĩa tiêu
cực như một hình thức cúi đầu, chịu làm tay sai cho ngoại bang. Đúng ra, cảm thấy
nhục nhã không phải là thái độ phản quốc; trái lại trong hoàn cảnh đất nước hôm
nay, biết nhục càng nhiều càng tốt. Ngoại trừ những kẻ ngày đêm sống trong bóng
tối mới không thấy được cái yếu kém của đất nước.
Muốn vượt
qua cái nhục, cái yếu hèn, không nên trốn tránh mà phải đối diện với chúng. Nỗi
nhục chính là phân bón cho cây xanh hy vọng của tương lai dân tộc được vươn lên
tươi tốt.
Trong suốt
dòng lịch sử, dân tộc Việt Nam đã hơn một lần chịu nhục. Lời trách mắng của
Hưng Đạo Đại Vương hơn bảy trăm năm trước như còn văng vẳng đâu đây: “Ngồi nhìn
chủ nhục mà không biết lo; Thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn”. Vâng, cũng từ
cái đau xót, cái nhục nhã, cái nhược tiểu của dân tộc Việt Nam mà thời đó tổ
tiên chúng ta đã đứng lên đánh bại cả một đạo quân Nguyên hùng mạnh mà vó ngựa
đã giẫm nát cả một phần lớn châu Âu và châu Á.
Việt Nam
đang đứng trước nhiều khó khăn nhưng không phải là không có một phương pháp giải
quyết. Như Đức cha Ngô Quang Kiệt đã nhấn mạnh trong buổi gặp gỡ Ủy ban Nhân
dân Thành phố Hà Nội hôm 20 tháng 9, phương pháp đó là: “Còn người Việt Nam
chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết,
thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính
trọng”.
Đảng đã xé
ra thì đảng phải rào lại. Đoàn kết dân tộc là trách nhiệm của đảng, nhưng đoàn
kết không bao hàm nghĩa đầu hàng mà phải dựa trên sự bình đẳng, tương kính giữa
các thành phần dân tộc và tôn trọng nhân phẩm con người với tất cả quyền tự do
bẩm sinh của họ. Và nếu không làm được điều đó thì chính các lãnh đạo đảng Cộng
sản Việt Nam chứ không ai khác là những người phỉ báng dân tộc Việt Nam.
Trần Trung Đạo
Talawas,
29.9.2008.
Hình :
https://www.facebook.com/photo?fbid=477225297739871&set=a.124728546322883
.
No comments:
Post a Comment