Công pháp quốc tế nào cho Ukraine ?
13/06/22
https://thongluan-rdp.org/quan-di-m/item/25224-cong-phap-qu-c-t-nao-cho-ukraine
Phần 1
Khái lược các tổ chức pháp luật và điều tra
quốc tế
Công pháp
quốc tế hay luật pháp quốc tế có thể hiểu đơn giản là các quy định và các
nguyên tắc phổ cập quốc tế có khả năng điều chỉnh hành vi của chính quyền các
quốc gia trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, lãnh thổ...
Công pháp
quốc tế thể hiện ở nhiều dạng như hiến chương, công ước, hiệp ước, bản quy ước,
nghị quyết. Xét về giá trị pháp lý thì luật quốc tế khi được quốc hội một quốc
gia thông qua sẽ có thẩm quyền cao hơn các bộ luật quy định các điều tương tự của
quốc gia đó. Có thể ví dụ về luật quy định thành lập tổ chức hội nhóm tại Việt
Nam có giá trị pháp lý thấp hơn hai công ước quốc tế là Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, văn hóa xã hội (International Covenant on Economic,
Social and Cutural Rights) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị (International Covenant on Civil and Politic Rights). Công
pháp quốc tế thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và từng cá nhân trong một quốc
gia, giữa nhà nước này và nhà nước khác trên thế giới, giữa nhà nước và các tổ
chức quốc tế, tổ chức xã hội dân sự...
Trong phần
1, chúng ta sẽ không đi sâu vào lịch sử của từng định chế quốc tế mà sẽ xem xét
thẩm quyền của nó về hàng loạt các vấn đề như xâm lược lãnh thổ, sự lạm dụng
nhân quyền của quân xâm lược, quyền lực của các phán quyết và nghị quyết...
https://live.staticflickr.com/65535/52144413651_65b68d8468.jpg
Đại hội đồng là một diễn đàn duy nhất bao gồm
tất cả các quốc gia thành viên tham gia thảo luận đa phương về toàn bộ vấn đề
quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc.
1. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (United
Nations General Assembly - UNGA)
Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc là một cơ quan hoạch định chính sách chính của Tổ chức Liên Hợp
Quốc. Đại hội đồng là một diễn đàn duy nhất bao gồm tất cả các quốc gia thành
viên tham gia thảo luận đa phương về toàn bộ vấn đề quốc tế được quy định trong
Hiến chương Liên Hợp Quốc. Mỗi thành viên trong 193 quốc gia thuộc Liên Hợp Quốc
có một phiếu bầu như nhau.
Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc cũng đưa ra các quyết định quan trọng cho Liên Hợp Quốc, bao gồm
:
- Bổ nhiệm
Tổng thư ký theo đề nghị của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
- Bầu chọn
thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
- Phê duyệt
ngân sách Liên Hợp Quốc.
Ngoài ra,
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thường xuyên thảo luận và biểu quyết những vấn đề mà
thế giới đang đối mặt như : dịch bệnh, phân biệt chủng tộc, nhân quyền, bất
bình đẳng, biến đổi khí hậu, nghèo đói, xung đột vũ trang... nhằm xúc tiến các
chương trình kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục.
Những văn
bản quyết định về những vấn đề được thảo luận và được biểu quyết theo đa số tại
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc được gọi là các nghị quyết. Nghị quyết tại Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc không mang tính ràng buộc pháp lý nhưng có sức nặng về chính trị.
Điều đó có nghĩa rằng Đại hội đồng Liên Hợp Quốc không thể dùng nghị quyết của
mình để bắt buộc Nga chấm dứt cuộc xâm lược trái công pháp quốc tế tại Ukraine,
nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc chỉ thể hiện ý chí chung của đa số
các quốc gia trên thế giới, nhưng là một áp lực ngoại giao cho Nga.
Tuy nhiên,
nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc có thẩm quyền đối với các thành viên
đang nắm giữ vị trí của các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc (Hội đồng Bảo an có
tính lịch sử nên sẽ bàn sau). Vào ngày 7/4/2022, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã
đình chỉ tạm thời tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc của Nga
sau các báo cáo về "các hành vi vi phạm và lạm dụng nhân quyền tổng thể và
có hệ thống" trong khi quân đội Nga xâm lược ở Ukraine. Ngay sau đó Nga đã
đệ đơn xin rút khỏi Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc vì cho rằng nghị quyết của
Đại hội đồng là một động thái mang tính chính trị do Hoa Kỳ dẫn đầu.
https://live.staticflickr.com/65535/52144437203_8bd5021ecb.jpg
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc có trách nhiệm
chính trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
2. Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (United
Nations Security Council - UNSC)
Hội đồng Bảo
an Liên Hợp Quốc có trách nhiệm chính trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc
tế. Hội đồng có 15 thành viên và mỗi thành viên có một phiếu bầu. Theo điều 25,
Hiến Chương của Liên Hợp Quốc, tất cả các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân
thủ các quyết định của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Hội đồng Bảo
an Liên Hợp Quốc đi đầu trong việc xác định sự tồn tại của các mối đe dọa hòa
bình hoặc hành động xâm lược. Hội đồng kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp bằng
các biện pháp hòa bình và đề xuất các phương pháp điều chỉnh hoặc điều khoản giải
quyết. Trong một số trường hợp, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng những lệnh trừng
phạt áp đặt hoặc thậm chí ủy quyền cho phép sử dụng vũ lực nhằm duy trì và khôi
phục hòa bình và an ninh quốc tế.
Trong 15
thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thì có 5 thành viên là thành viên
thường trực (cố định, không qua bầu chọn) bao gồm Trung Quốc, Pháp, Nga, Anh,
Hoa Kỳ. Mười thành viên còn lại là các thành viên không thường trực được bầu chọn
tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Mười ghế không thường trực trong Hội đồng Bảo
an được sắp xếp với định mức cho mỗi khu vực : 2 ghế cho mỗi khu vực châu Phi,
châu Á - Thái Bình Dương, châu Mỹ Latin và Caribe, Tây Âu và nhóm các quốc gia
khác, 1 ghế cho Đông Âu, và ghế còn lại luân phiên giữa châu Phi và châu Á.
Năm thành
viên thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc là năm nước đã thắng trận
trong Chiến tranh thế giới thứ Hai (riêng với trường hợp Trung Quốc thì sau
chính quyền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa giành được ảnh hưởng trên trường quốc tế
và loại Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc ra khỏi đại lục Trung Hoa thì quốc gia
này đã tiếp nhận vị trí của Đài Loan tại Hội đồng. Trong khi đó Nga được cộng đồng
quốc tế coi là quốc gia thừa kế hợp pháp của Liên Xô) và cũng là năm quốc gia sở
hữu vũ khí hạt nhân.
Năm quốc
gia thường trực có phiếu bầu với giá trị tương đương với 10 quốc gia không thường
trực nhưng họ có quyền phủ quyết nghị quyết của Hội đồng Bảo an theo điều 27 của
Hiến Chương Liên Hợp Quốc :
- Mỗi quốc
gia của Hội đồng Bảo an có một phiếu bầu.
- Những
quyết định của Hội đồng Bảo an về các vấn đề thủ tục được đưa ra bằng một cuộc
bỏ phiếu khẳng định của chín thành viên.
- Các quyết
định của Hội đồng Bảo an về các vấn đề khác sẽ được đưa ra bằng cuộc bỏ phiếu
khẳng định của của chín thành viên bao gồm những phiếu bầu đồng tình của các
thành viên thường trực ; với điều kiện, trong các quyết định theo chương VI, và
theo khoản 3 của điều 52, một bên tranh chấp sẽ không tham gia bỏ phiếu.
Điều này
có nghĩa rằng trong tất cả các vấn đề cần thảo luận và đưa ra nghị quyết của Hội
đồng Bảo an thì cần có ít nhất một đa số quá bán (9/15 = 60%) các nước đồng ý
thông qua, riêng với vấn đề không thuộc các vấn đề mang tính thủ tục (bao gồm sửa
đổi Hiến chương Liên Hợp Quốc, xác định tranh chấp hoặc tình thế theo quy định
tại Chương VI và VII Hiến chương Liên Hợp Quốc, áp dụng các biện pháp cưỡng chế,
đề nghị việc bầu Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, đình chỉ tư cách thành viên và khai
trừ thành viên) thì trong 9 thành viên đồng ý thông qua nghị quyết phải có 5
thành viên thường trực. Nếu một thành viên thường trực bỏ phiếu chống thì nghị
quyết không được thông qua. Tuy nhiên nếu thành viên thường trực vắng mặt (tự
nguyện hoặc bắt buộc) hoặc bỏ phiếu trắng trong cuộc bỏ phiếu sẽ không ngăn được
nghị quyết được thông qua. Các nghị quyết của Hội đồng Bảo an có tính pháp lý bắt
buộc đối với các thành viên thuộc Liên Hợp Quốc và được thực thi bởi Lực lượng
gìn giữ Hòa bình của Liên Hợp Quốc.
Câu hỏi được nhiều người đặt ra là Nga hiện đang
là một bên tranh chấp về vấn đề lãnh thổ Ukraine thì Nga không có tư cách bỏ
phiếu dù Nga đang là một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Hai lý do được đưa ra là :
Thứ nhất là trước khi xảy ra chiến sự Ukraine, Nga
đã chiếm giữ trái phép bán đảo Crimea, sau sự kiện đó, Ukraine và Nga đều là
hai bên trong vụ tranh chấp bán đảo Crimea.
Thứ hai, hành động "quân sự đặc biệt" của
Nga tại Ukraine thực chất là một hành vi xâm lược mang danh nghĩa "bảo vệ
vùng nói tiếng Nga và giải trừ vũ khí của chính quyền tân phát xít", giao
tranh quân sự đã xảy ra và hiện Nga đang nắm vùng Donbass trong tay, Nga và
Ukraine là hai bên trong vụ tranh chấp Donbass. Nếu Nga vắng mặt hoặc bỏ phiếu
trắng như điều 27 của Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định, thì nghị quyết sẽ được
thông qua. Nhưng điều mà chúng ta thấy lại ngược lại : Nga liên tục có mặt
trong các cuộc bỏ phiếu tại Hội đồng Bảo an và cũng liên tục bỏ phiếu chống
không cho các dự thảo nghị quyết được thông qua, phải giải thích điều này như
thế nào ?
Chúng ta
cùng nhau bàn về một dự thảo nghị quyết đầu tiên sau khi Nga xâm lược Ukraine
: "buộc Nga phải chịu trách nhiệm cho hành vi xâm lược chống lại
Ukraine, bảo vệ dân thường, bao gồm cả trẻ em, và kêu gọi hỗ trợ nhân đạo nhanh
chóng, an toàn và không bị cản trở cho những người cần".
Dự thảo
nghị quyết do Hoa Kỳ đề xướng đã được 52 thành viên tại Đại hội đồng Liên Hợp
quốc tán thành bảo trợ. Kết quả của cuộc bỏ phiếu tại Hội đồng Bảo an ngày
25/02/2022 cho thấy mười một nước đồng ý với nghị quyết gồm Hoa Kỳ, Anh, Pháp,
Albania. Brazil. Gabon, Ghana, Ireland, Kenya, Mexico và Na Uy ; ba nước bỏ phiếu
trắng gồm Trung Quốc, Ấn Độ, các tiểu vương quốc UAE ; duy nhất Nga bỏ phiếu chống
và Nga lúc đó đang là chủ tịch của Hội đồng Bảo an (ghế chủ tịch Hội đồng sẽ được
trao luân phiên cho các nước từng tháng). Việc Nga ngồi tại Hội đồng Bảo an và bỏ phiếu trong lúc
đang là một bên tranh chấp với Ukraine đã vi phạm trắng trợn điều 27 của Hiến
Chương Liên Hợp Quốc, và không cần phải lý luận gì nhiều cả, chỉ có thể đưa ra
một kết luận duy nhất : Nga đã dẫm đạp lên luật pháp quốc tế bất chấp sự phản đối
của đa số thành viên thuộc Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, có một cách giải thích
khác được đưa ra một cách lúng túng từ các chuyên gia trong Hội đồng Bảo an :
Các nước là thành viên thường trực không viện dẫn điều 27 để thách thức hành động
bất hợp pháp của Nga là vì họ muốn để mở khả năng phủ quyết của họ trong tương
lai nếu họ có liên quan đến một vụ việc tương tự. Cách giải thích này, đã nói
lên rằng việc cấm quyền biểu quyết của điều 27 thể hiện xung đột lợi ích không
có ý nghĩa gì cả.
https://live.staticflickr.com/65535/52144438323_456066ce88.jpg
Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc là một tổ
chức bao gồm 47 quốc gia thành viên chịu trách nhiệm cho việc thúc đẩy và bảo vệ
tất cả quyền con người trên toàn cầu.
3. Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (United
Nations Human Rights Council) và Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc (Office
of High Commissioner for Human Rights)
Hội đồng
Nhân quyền Liên Hợp Quốc là một tổ chức liên chính phủ trực thuộc hệ thống Liên
Hợp Quốc bao gồm 47 quốc gia thành viên chịu trách nhiệm cho việc thúc đẩy và bảo
vệ tất cả quyền con người trên toàn cầu. Hội đồng họp ít nhất 3 phiên mỗi
năm ở Geneva, Thụy Sĩ.
Vai trò của
hội đồng là tăng cường xúc tiến và bảo vệ nhân quyền trên toàn cầu và nêu lên
tình trạng vi phạm nhân quyền và khuyến nghị để xử lý các hành vi vi phạm nhân
quyền, đặc biệt là vi phạm nhân quyền trắng trợn có hệ thống. Hội đồng có khả
năng thảo luận tất cả vấn đề và tình hình Nhân quyền cần được chú ý xuyên suốt
mỗi năm.
Văn phòng
Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc là cơ quan thư ký của Hội đồng Nhân Quyền.
Được bầu
theo nhiệm kỳ ba năm, các nước thành viên của Hội đồng thảo luận, hành động và
thông qua các nghị quyết liên quan đến những khoản mục khác nhau trong chương
trình nghị sự thường trực :
1. Các vấn
đề tổ chức và thủ tục.
2. Báo cáo
thường niên của Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc và các báo cáo của Văn phòng
Cao ủy và Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.
3. Xúc tiến
và bảo vệ tất cả các nhân quyền : quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và
văn hóa, kể cả quyền phát triển.
4. Những
tình hình nhân quyền cần được sự chú ý của Hội đồng.
5. Các cơ
quan và cơ chế nhân quyền.
6. Kiểm điểm
Định kỳ Phổ quát.
7. Tình
hình nhân quyền ở Palestine và các vùng lãnh thổ Ả-rập bị chiếm đóng.
8. Theo
dõi và thực hiện Tuyên bố và Chương trình Hành động Vienna.
9. Nạn
phân biệt sắc tộc, phân biệt chủng tộc, bài ngoại, và các hình thức bất dung có
liên quan ; theo sát và thực hiện Tuyên bố và Chương trình Hành động Dubai.
10. Hỗ trợ
kỹ thuật và xây dựng năng lực.
Hội đồng
cân nhắc các hoạt động của những sứ mệnh nhân quyền và cơ chế nhân quyền cấp dưới,
và có thể tổ chức các cuộc thảo luận nhóm cũng như các sự kiện đặc biệt để tăng
cường đối
thoại và
hiểu biết lẫn nhau về những vấn đề cụ thể. Bên cạnh các phiên họp thông thường,
Hội đồng còn có thể tổ chức các phiên đặc biệt liên quan đến các vấn đề theo
chuyên đề hay vấn đề của từng nước cụ thể.
Ngoài những
nước thành viên Hội đồng, các quan sát viên – bao gồm những nước không phải là
thành viên, các tổ chức liên chính phủ, các định chế nhân quyền quốc gia, các tổ
chức phi chính phủ (Non-Governmental Organization - NGOs) cũng có thể tham gia
vào một phiên họp. Một đại diện tiêu biểu của NGOs là tổ chức Theo dõi Nhân quyền
(Human Rights Watch) có trụ sở tại New York, Hoa Kỳ.
Cao ủy
Nhân Quyền Liên Hợp Quốc có thẩm quyền yêu cầu mở các cuộc điều tra vi phạm
nhân quyền và ra các thông cáo báo chí về các vấn đề Nhân quyền. Các nghị quyết
mà Hội đồng Nhân quyền thông qua chỉ có vai trò là trở thành một chuẩn mực nhân
quyền chung, giá trị thực thi của nó do các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đảm
nhận. Điều này có mặt hạn chế trong việc phổ cập các giá trị nhân quyền vì chỉ
những nước có ý chí chung về nhân quyền mới tích cực đưa ra các biện pháp trừng
phạt các nước vi phạm nhân quyền. Ví dụ rõ nhất các quốc gia phương Tây và Hoa
Kỳ đã thi hành nhiều biện pháp trừng phạt kinh tế lên Nga nhằm đáp trả các hành
vi vi phạm nhân quyền có hệ thống được tiến hành bởi quân đội Nga ở Bucha,
Ukraine. Một số nước Châu Á cùng chia sẻ các giá trị với phương Tây như Nhật Bản,
Hàn Quốc và Singapore ủng hộ các lệnh trừng phạt và đồng thời cũng áp đặt các lệnh
trừng phạt của họ lên nước Nga. Ngược lại, các nước độc tài ngoài việc vi phạm
nhân quyền và ủng hộ lẫn nhau hành vi vi phạm nhân quyền còn luôn viện cớ các tổ
chức Nhân quyền phi chính phủ "đã giúp các chính quyền nước ngoài"
can thiệp công việc nội bộ, vi phạm điều 2, Hiến chương Liên Hợp Quốc 1945 về
nguyên tắc cấm can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Trong khi đó
các tổ chức nhân quyền phi chính phủ chỉ tiến hành các công việc điều tra và
báo cáo tình hình nhân quyền lên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, không hề có
chuyện "can thiệp" như các chính quyền độc tài đã nói dối trắng trợn.
4. Tòa án Công lý Quốc tế (International
Court of Justice - ICJ).
Tòa án
Công lý Quốc tế là một cơ quan tài phán quan trọng của Liên Hợp Quốc. Tòa án được
thành lập vào tháng 6 năm 1945 bởi Liên Hợp Quốc và bắt đầu đi vào hoạt động
vào tháng 4 năm 1946.
Trụ sở của
Tòa án là Cung điện Hòa bình ở La Hay (Hà Lan). Trong số sáu cơ quan chính của
Liên Hợp Quốc, tòa án là cơ quan duy nhất không tọa lạc tại New York (Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ).
Vai trò của
tòa án là giải quyết, theo luật pháp quốc tế, các tranh chấp pháp lý được đệ
trình lên tòa án bởi các quốc gia và đưa ra các ý kiến tư vấn về các câu hỏi
pháp lý do các các cơ quan có thẩm quyền của Liên Hợp Quốc và các cơ quan
chuyên môn đề cập đến. Tòa án phán quyết các tranh chấp giữa các quốc gia, dựa
trên sự tình nguyện tham gia của các quốc gia liên quan. Nếu một quốc gia đồng
ý tham gia một thủ tục tố tụng, thì quốc gia đó có nghĩa vụ tuân theo phán quyết
của tòa án.
Tòa án
Công lý Quốc tế bao gồm 15 thẩm phán được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (UNGA) và
Hội đồng Bảo an (UNSC) bầu chọn với nhiệm kỳ chín năm. Tòa án bao gồm các thẩm
phán với quốc tịch không trùng nhau. Hơn nữa, toàn bộ Tòa án phải đại diện cho
các hình thức chính của nền văn minh và các hệ thống nguyên tắc pháp lý của thế
giới. Những cơ quan này (UNGA và UNSC) bỏ phiếu đồng thời nhưng riêng biệt. Để
được bầu chọn, một ứng viên phải nhận một đa số tuyệt đối phiếu bầu từ cả hai
cơ quan (UNGA và UNSC). Điều này thỉnh thoảng làm cho một số vòng bỏ phiếu cần
thiết phải được thực hiện. Để đảm bảo một biện pháp liên tục, 1/3 thành viên của
tòa án sẽ được bầu lại ba năm 1 lần. Các thẩm phán có đủ tư cách để tái cử. Nếu
một thẩm phán qua đời hoặc từ chức trong thời gian thuộc nhiệm kỳ của mình, một
cuộc bỏ phiếu đặc biệt được tổ chức sớm nhất có thể nhằm chọn một thẩm phán mới
thay thế vào phần nhiệm kỳ chưa hết hạn của vị thẩm phám đã rời khỏi Tòa án.
Thẩm phán
tạm thời (ad-hoc) là một chức vụ thẩm phán được quy định trong điều 31, khoản 2
và 3, quy chế của Tòa án. Một quốc gia thành viên của một vụ kiện trước Tòa án
Công lý Quốc tế mà không có một thẩm phán có quốc tịch của mình trong hàng ghế
thẩm phán, quốc gia đó có thể chọn một vị thẩm phán tạm thời, trường hợp cụ thể
này được qui định từ Điều 35 đến Điều 37 của Quy chế Tòa án. Trước khi nhận nhiệm
vụ của mình, một thẩm phán tạm thời được yêu cầu tuyên thệ trang trọng giống
như một thành viên được bầu vào Tòa án. Họ không nhất thiết phải (và thường
không phải) là một công dân của nước chỉ định họ.
Các thẩm
phán tạm thời tham gia vào bất kỳ quyết định nào liên quan đến vụ việc trên điều
kiện hoàn toàn bình đẳng với những đồng nghiệp của họ và nhận một khoản phí cho
mỗi ngày họ thực hiện nhiệm vụ của mình, có nghĩa là mỗi ngày họ ở La Hay để
tham gia công việc của Tòa án, cộng với mỗi ngày xem xét vụ án bên ngoài La
Hay. Một bên tranh chấp phải thông báo càng sớm càng tốt ý định chọn một thẩm
phán tạm thời. Trong trường hợp có nhiều hơn hai bên tranh chấp (trường hợp này
không thường xuyên xảy ra), quy tắc là các bên hành động cùng lợi ích bị hạn chế
chỉ có duy nhất một thẩm phán tạm thời giữa họ và điều đó (hành động cùng một lợi
ích), nếu một trong số các bên (hành động cùng một lợi ích) đã có một thẩm phán
thuộc quốc tịch của mình trên hàng ghế thẩm phán, họ không được quyền chọn một
thẩm phán tạm thời. Do đó nhiều khả năng đã xảy ra trong thực tế tại tòa án :
có hai thẩm phán thường trực có quốc tịch của các bên cùng lợi ích ; hai thẩm
phán tạm thời ; một thẩm phán thường trực có quốc tịch của một trong các bên
cùng lợi ích và một thẩm phán tạm thời ; không có thẩm phán thường trực có quốc
tịch của một trong các bên cùng lợi ích cũng như không có thẩm phán tạm thời.
Theo đó,
thành phần thẩm phán của Tòa án Công lý Quốc tế sẽ thay đổi theo từng vụ việc số
lượng thẩm phán ngồi trong một vụ việc không nhất thiết là 15. Có thể ít hơn, nếu
một hoặc nhiều thẩm phán được bầu chọn không ngồi trên hàng ghế thẩm phán, hoặc
nhiều nhất là 16 hoặc 17 nếu có những thẩm phán tạm thời ; về lý thuyết số lượng
có thể thậm chí hơn 17 thẩm phán trên hàng ghế tòa án nếu có một số bên trong
trong một vụ án không hành động cùng một lợi ích. Thành phần thẩm phán của Tòa
án đôi khi thay đổi từng giai đoạn của một vụ án : nói cách khác, thành phần thẩm
phán không nhất thiết phải giống các biện pháp tạm thời, các phản đối sơ bộ và
các lý lẽ phải trái. Tuy nhiên, một khi Tòa án cuối cùng đã được thành lập cho
một giai đoạn nhất định của một vụ án, tức là từ khi mở đầu mở đầu vụ kiện vấn
đáp trong giai đoạn đó cho đến khi đưa ra phán quyết liên quan đến vụ kiện, thì
thành phần thẩm phán sẽ không thay đổi.
Ngày
16/3/2022, ICJ đã ra một phán quyết sơ bộ yêu cầu Nga chấm dứt các hành động
quân sự tại Ukraine (chi tiết sẽ được bàn vào phần 3 của bài viết : "Các
công pháp quốc tế được áp dụng đối với Nga và Ukraine. Khát vọng dân chủ không
thể bị đảo ngược"). Trong phiên tòa ngày 7/3/2022, Ukraine đã tố cáo Nga sử
dụng diễn ngôn diệt chủng người Nga tại miền đông Ukraine nhằm thanh minh cho
hành động xâm lược. Trong khi đó Nga bác bỏ thẩm quyền tài phán của Tòa án và từ
chối cử đại diện tham dự, chỉ gửi bản đệ trình lập trường biện hộ của Nga cho
ICJ. ICJ tuyên bố rằng Nga thiếu các bằng chứng chứng minh có tội ác diệt chủng
người Nga tại miền đông Ukraine, và Nga không có quyền can thiệp vào lãnh thổ của
Ukraine ngay cả khi tộc ác diệt chủng thực sự đã xảy ra ở Ukraine, Nga với tư
cách là một thành viên của Công ước về Diệt chủng 1948 (Ukraine cũng là thành
viên của công ước này) chỉ có thể áp dụng các biện pháp can thiệp phù hợp với
các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế như tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia, không sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ
quốc tế. Với những lý do đó, Ukraine được hưởng quyền không bị Nga tấn công
quân sự. Phán quyết của tòa án được 13/15 thẩm phán thông qua (Ukraine chỉ định
một thẩm phán thường trực trở thành thẩm phán tạm thời của họ), quốc tịch của 2
thẩm phán không đồng ý thông qua phán quyết không được tiết lộ nhưng được báo
chí nhắc tới có khả năng cao là cặp bài trùng Nga - Trung.
Phán quyết
của ICJ là chung thẩm và có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý với các bên tham
gia. Tuy vậy, Nga đã từ chối tuân theo phán quyết của Tòa án với lý do ICJ
không có thẩm quyền xét xử vụ việc, tuyên bố rằng hành động quân sự không dựa
trên cáo buộc về diệt chủng (phải chăng Nga đang ám chỉ lý do khác là "phi
phát xít hoá Ukraine" ? Nhưng nếu Nga lấy lý do đó thì họ vẫn không có đủ
bằng chứng để kết tội chính quyền Ukraine là một chính quyền tân phát xít). Lập
luận của Nga đã bị ICJ bác bỏ hoàn toàn. Dù phán quyết của ICJ có giá trị pháp
lý nhưng Tòa không có lực lượng thi hành, Ukraine buộc phải đưa vụ việc ra giải
quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc - cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế thi
hành bằng tất cả biện pháp, kể cả bạo lực. Nhưng Nga là uỷ viên thường trực của
Hội đồng Bảo an, có quyền phủ quyết mọi vấn đề được đưa ra ở cơ quan này. Do
đó, việc sử dụng cơ chế Hội đồng Bảo an để cưỡng chế thi hành phán quyết của
ICJ ngày 16/3 là bất khả thi.
https://live.staticflickr.com/65535/52144656169_a20827b5f3.jpg
Đại sứ Nga tại Liên Hợp Quốc
5. Tòa án Hình sự Quốc tế (International
Criminal Court - ICC).
Tòa án
Hình sự quốc tế là một tòa án quốc tế thường trực được thành lập nhằm điều tra,
truy tố và xét xử các cá nhân bị buộc tội phạm những tội ác nghiêm trọng nhất
mà cộng đồng quốc tế quan tâm, cụ thể là những tội ác diệt chủng, tội ác chống
lại loài người, tội ác chiến tranh và tội ác xâm lược.
Khác với
Tòa án Công lý Quốc tế có thẩm quyền tài phán với các vụ việc tranh chấp giữa
các quốc gia, Tòa án Hình sự Quốc tế có thẩm quyền xét xử các cá nhân có liên
quan đến những tội ác chống nhân loại như đã liệt kê. Tòa án Hình sự Quốc tế
cũng có trụ sở ở La Hay, Hà Lan.
Tiền thân
của Tòa án Hình sự Quốc tế là các tòa án xét xử tội phạm chiến tranh trong thế
chiến thứ hai, có thể kể đến là các tòa án ở Nuremberg và Tokyo được thành lập
để xét xử những kẻ đầu sỏ phát xít. Vào năm 1948, khi Công ước về Ngăn ngừa và
Trừng phạt tội ác Diệt chủng (Convention on the Prevention and Punishment of
the Crime of Genocide, được viết vắn tắt là Genocide Convention) được thông
qua, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc công nhận sự cần thiết phải có một tòa án quốc
tế thường trực để giải quyết các hành động tàn bạo đã xảy ra.
Ý tưởng về
một hệ thống tư pháp hình sự quốc tế lại được nổi lên sau chiến tranh lạnh. Tuy
nhiên, trong khi các cuộc đàm phán về Quy chế ICC đang được tiến hành tại Liên
Hợp Quốc, thế giới phải chứng kiến những tội ác kinh hoàng trong lãnh thổ của
Nam Tư cũ và ở Rwanda. Để đáp lại những hành động vô nhân tính, Hội Đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc đã thành lập một tòa án đặc biệt cho những tình huống này.
Vào
17/7/1998, một hội nghị gồm 160 quốc gia đã thành lập hiệp ước đầu tiên dựa
trên tòa án hình sự quốc tế thường trực. Hiệp ước được thông qua trong hội nghị
đó được biết đến là Quy chế Rome của Tòa án Hình sự Quốc tế. Hiệp ước đặt các tội
phạm thuộc thẩm quyền của ICC, các quy tắc thủ tục và cơ chế để các quốc gia hợp
tác với ICC. Những quốc gia đồng ý với các quy tắc này được gọi là các quốc gia
thành viên và được đại diện tại Hội đồng các quốc gia thành viên.
Hội đồng
quốc gia thành viên họp ít nhất một năm một lần, quy định những chính sách quản
lý chung của tòa án và xem xét các hoạt động của tòa án. Trong những cuộc họp,
các quốc gia thành viên xem lại các hoạt động của các nhóm công tác đã được
thành lập bởi các quốc gia và bất kỳ vấn đề nào khác liên quan đến ICC, thảo luận
những dự án mới và thông qua nhân sách hàng năm của ICC.
Căn cứ vào
Quy chế Rome và hành động quân sự của Nga tại Ukraine, các cá nhân và chính quyền
Liên Bang Nga đã phạm vào 2 tội được quy định trong Quy chế là tội ác xâm lược
và tội ác chiến tranh (chi tiết tham khảo bài viết "Từ Chiến tranh
Nga-Ukraine nhìn về thẩm quyền của Tòa án Hình sự Quốc tế" của trang
Nghiên cứu quốc tế).
Putin, các
quan chức và tướng lĩnh Nga chính là tội phạm xâm lược theo Khoản 1, Điều 8bis,
Quy chế Rome 1998 về Tòa án Hình sự Quốc tế : "Tội phạm xâm lược
có nghĩa là lập kế hoạch, chuẩn bị, bắt đầu hoặc thực hiện, bởi một người ở một
vị trí có thẩm quyền để thực hiện quyền kiểm soát hoặc chỉ đạo các hành động
chính trị hoặc quân sự của một Quốc gia, hành động xâm lược mà xét theo đặc
tính, mức độ nghiêm trọng và quy mô của nó, tạo thành một sự vi phạm Hiến
chương Liên Hợp Quốc”. Ngoài ra, hành vi xâm lược của Nga nhằm vào Ukraine
đã vi phạm một số mục trong Khoản 2, Điều 8bis của Quy chế Rome 1998 về Tòa án
hình sự quốc tế có định nghĩa lại hành vi xâm lược trên cơ sở định nghĩa của
Nghị quyết 3314 ngày 14/12/1974 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.
Tiếp theo,
căn cứ vào Khoản 2, Điều 8 Quy chế Rome 1998. Các hành vi của quân đội Nga đã
thực hiện tại Ukraine đã cấu thành tội phạm chiến tranh, bao gồm các hành vi
nhiều lần tấn công vào các mục tiêu phi quân sự như khu dân cư, chung cư cao tầng,
bệnh viện, bệnh viện phụ sản, trường học, các khu chợ, nhà hát, viện bảo
tàng...Đặc biệt, việc tìm thấy những hố chôn tập thể ở một số vùng trước đây bị
quân Nga chiếm đóng mà nay đã rút đi như Bucha, hay Mariupol càng làm tăng thêm
sự nghi ngờ về những hành vi phạm tội phạm chiến tranh mà Nga tiến hành ở
Ukraine. Hiện tại, ngoài Cơ quan Công tố của Tòa án Hình sự Quốc tế và các tổ
chức quốc tế độc lập, một nhóm điều tra chung (JIT) do 6 quốc gia gồm Estonia,
Slovakia, Latvia, Ba Lan, Litva, Ukraine dưới sự điều hành của Eurojust đang
thu thập và tập trung bằng chứng để lập danh sách và truy tố các cá nhân trong
quân đội Nga đã tham gia vào tội ác chiến tranh.
https://live.staticflickr.com/65535/52143399017_a40ea45c6d.jpg
Putin, các quan chức và tướng lĩnh Nga chính
là tội phạm xâm lược theo Khoản 1, Điều 8bis, Quy chế Rome 1998 về Tòa án Hình
sự Quốc tế.
Tòa án
Hình sự Quốc tế là một định chế tư pháp bổ trợ hệ thống tư pháp các quốc gia
thành viên. Khi tòa án xét xử tội ác chiến tranh của một quốc gia "không
thể" (do lo sợ những quy định tư pháp của bản thân quốc gia đó khác với những
quy định tư pháp của nước có tội phạm đang bị xét xử, cũng có thể do năng lực
chuyên môn của hệ thống tư pháp của quốc gia đó không đáp ứng được tiêu chuẩn)
hoặc "không muốn" xét xử các tội thuộc 4 nhóm tội phạm theo Quy chế
Rome thì ICC sẽ có thẩm quyền xét xử. Nhưng nếu quốc gia thành viên của Quy chế
có khả năng vẫn được tiến hành phiên toà. Tuy nhiên, Ukraine (và cả Nga) không
là thành viên của Quy chế Rome nên việc xét xử tội phạm chiến tranh sẽ theo hệ
thống pháp luật của Ukraine, điển hình là vào tháng 5, tòa án Ukraine đã tuyên
án chung thân một chỉ huy xe tăng với tội danh giết chết một dân thường trong
phiên tòa đầu tiên xét xử tội ác chiến tranh kể từ khi Nga xâm lược Ukraine. Bởi
vì hành vi phạm tội ác chiến tranh của quân đội Nga xảy ra tại Ukraine nên chỉ
có những tòa án của Ukraine và ICC mới có thẩm quyền xét xử vụ án còn tòa án
Nga thì không.
Nhưng việc
xét xử những kẻ trực tiếp gây ra cuộc chiến Nga - Ukraine rất khó khăn vì : Thứ nhất là ICC đã được thành lập, việc
thành lập các tòa án tạm thời (ad-hoc) để giải quyết những vụ việc cụ thể không
cần thiết và bất khả thi (điều kiện thành lập các tòa án tạm thời này có một điểm
chú ý trong lịch sử : các tòa án tạm thời được lập ra để xét xử các tội phạm
chiến tranh của các quốc gia bị cưỡng chế quân sự và chính quyền các quốc gia
đó có những sự thay đổi trong giai đoạn chuyển giao, điển hình là Tòa án
Nuremberg 1946 và Tòa án Tokyo 1946 vì hành vi phạm tội phạm chiến tranh, Tòa
án Ruanda 1994 và Tòa án Nam Tư 1993 được lập ra để xét xử các tội phạm chiến
tranh và tội diệt chủng). Thứ hai là
Nga hiện đang là một thành viên của Hội đồng Bảo an, có quyền phủ quyết bất kỳ
Nghị quyết nào của Hội đồng, bao gồm cả những Nghị quyết yêu cầu Hội đồng Bảo
an hỗ trợ ICC trong việc tiến hành điều tra những hành vi có dấu hiệu phạm tội
thuộc 4 loại tội ác được quy định trong Quy chế Rome. Thứ ba là Nga chưa phải là một thành viên của Quy chế Rome, rất có
thể Nga sẽ không công nhận phán quyết của ICC như khi đã làm với ICJ, do đó việc
truy cứu tội ác của các binh sĩ Nga sẽ khó thực hiện. Thứ tư là Ukraine - quốc
gia là nơi đang xảy ra các hành vi có dấu hiệu phạm tội cũng chưa phải là một
thành viên của Quy chế Rome nên ICC không có thẩm quyền đương nhiên đối với các
hành vi của quân đội Nga thực hiện trên lãnh thổ Ukraine.
Thiên Cầm
(14/6/2022)
--------------------------
Tài liệu
tham khảo :
- Hiến
chương Liên Hợp Quốc (Charter of the United Nations).
- Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (United
Nations General Assembly).
- Hội đồng
Bảo an Liên Hợp Quốc (United Nations Security Council).
- Hội đồng Nhân quyền
Liên Hợp Quốc (United Nations Human Rights Council) Cao
ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc (Office of High Commissioner for
Human Rights).
- Tòa án Công lý Quốc tế (International
Court of Justice).
- Tóm tắt phán
quyết sơ bộ của ICJ về chiến sự Nga - Ukraine.
- Tòa án Hình
sự Quốc tế (International Criminal Court - ICJ).
- Từ Chiến tranh
Nga-Ukraine nhìn về thẩm quyền của Tòa án Hình sự Quốc tế.
No comments:
Post a Comment