02/28/2018
Vợ
chồng nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông (ngồi) chụp tại tư gia của ông năm 2014 cùng các
ca sĩ Giao Linh, Phương Hồng Quế, Trang Thanh Lan, Phương Hồng Ngọc, Kim Anh ,
Michael, nhạc sĩ Trần Quốc Bảo (Hình: nhạc sĩ Trần Quốc Bảo cung cấp) (Trích lại
từ báo NV)
Giới
Thiệu:
Bản tin của nhật báo Người Việt cho biết: “Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, tác
(giả tình khúc nổi tiếng “Chiều Mưa Biên Giới”, vừa qua đời lúc 4 giờ
30 sáng Thứ Hai, ngày 26 Tháng Hai (tức 7 giờ 30 tối 26 Tháng Hai theo giờ Việt
Nam) tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn, hưởng thọ 85 tuổi . . .”.
Qua
Bản Tin, chúng ta được biết cấp bậc cuối cùng nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông trong
QLVNCH là Đại Tá. Sau 1975, ông đi cải tạo gần 10 năm nhưng không xin xuất cảnh
theo diên HO, mà ở lại trong nước.
Cũng
theo Bản Tin trên báo Người Việt:
“Về
gia đình riêng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, theo nhạc sĩ Trần Quốc Bảo thì “Hầu
như những người thân đều biết cô Nguyệt Thu là vợ của thầy Đông. Hai thầy
cô lấy nhau từ khi nào thì không rõ nhưng chắc chắn một điều là sau khi thầy
ra khỏi tù cải tạo năm 1985, cô Thu một tay quán xuyến một cửa hàng bán bánh
mì, giò chả tên Nhiên Hương tại nhà đường Nguyễn Trọng Tuyển, Phú Nhuận, và lo
lắng chăm sóc cho thầy không rời nửa bước.”
“Với
thầy Đông, tôi chỉ biết nói rằng tôi kính phục ông nhất hai điểm, đó là tài hoa
và tư cách,” nhạc sĩ Trần Quốc Bảo cảm nhận.
Chủ
nhiệm đặc san Thế Giới Nghệ Sĩ nói thêm, “Được biết, do không có con cháu, nên
trong cáo phó của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông có ghi ‘không nhận vòng hoa, phúng điếu’
vì sợ sau này không có người trả lễ.”
Nhân
dịp này, để tưởng nhớ đến công lao đóng góp to lớn của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
cho nền âm nhạc Việt Nam, chúng tôi xin trích đăng lại chương nói về nhạc sĩ
trong tập sách “Âm Nhạc Của Một Thời” của
Lê Hữu (Tủ Sách T.Vấn & Bạn Hữu tái bản dịp cuối năm 2017 vừa qua).
Vì
bài khá dài, chúng tôi sẽ chia làm 2 kỳ.
Xin
kính mời quý độc giả theo dõi.
TV&BH
---------------------------
người lính Nguyễn Văn
Đông
Anh
như ngàn gió
ham
ngược xuôi theo đường mây…
(“Mấy
dặm sơn khê”, Nguyễn Văn Ðông)
Hôm
ấy, tôi còn nhớ, một chiều hè năm 1969, chúng tôi ngồi ở một quán nước quen dọc
bờ biển Nha Trang. Bên cạnh tôi là H., người bạn học cũ. Ðã lâu lắm chúng tôi mới
gặp lại nhau kể từ ngày rời xa mái trường cũ ở một thị trấn miền cao nguyên đất
đỏ. H. cho biết anh sắp sửa nhập ngũ, thì giờ rảnh rỗi như thế này sẽ chẳng còn
được bao lâu nữa. Anh có người yêu ở thành phố biển này. Tôi thì vẫn lang thang
trên sân trường đại học, tấm giấy chứng chỉ hoãn dịch trong tay vẫn còn hiệu lực.
Trên
mặt bàn là những chai bia đã cạn và câu chuyện cũng đến lúc cạn đề tài. Chúng
tôi ngồi im lặng, cùng phóng tầm mắt nhìn ra vùng biển bao la trước mặt, chờ mặt
trời lặn để ngắm cảnh hoàng hôn trên bãi biển trong lúc tiếng nhạc bập bùng vọng
ra từ một góc quầy.
Người đi giúp núi
sông
hàng hàng lớp lớp
chưa về
hàng hàng nối tiếp
câu thề
giành lấy quê hương
“Bài
gì vậy?” H. quay sang tôi, hỏi.
“‘Hàng
hàng lớp lớp’,” tôi trả lời.
“Tên
gì lạ vậy?”
“Gọi
tắt là vậy,” tôi cười, “tên đầy đủ là ‘Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp’.”
H.
lặng thinh, có vẻ chăm chú lắng nghe. Lời ca tiếng nhạc khi réo rắt, khi trầm bổng.
Còn
đây đêm cuối cùng
nhìn
em muốn nói chuyện người Kinh Kha
ngại
khơi nước mắt nhạt nhòa môi em
“Giọng
Hà Thanh phải không?” H. lại hỏi. “Còn giọng nam?”
“Hùng
Cường.”
“Thiệt
sao?” giọng hỏi thoáng chút ngờ vực.
Tôi
hiểu, anh bạn tôi đâu biết rằng, ngoài những bài “tủ” như “Vọng ngày xanh”
(Khánh Băng), “Ông lái đò” (Hiếu Nghĩa), “Sơn nữ ca” (Trần Hoàn)…, ca sĩ Hùng
Cường–một nghệ sĩ cải lương khá nổi tiếng thời ấy–với chất giọng ténor
khoẻ khoắn, còn hát rất “tới” ít bài tân nhạc khác nữa, đặc biệt là những bài của
Nguyễn Văn Ðông.
Bài
hát chúng tôi đang nghe là của Nguyễn Văn Ðông.
Anh
bạn tôi đã nương theo câu hát ấy mà đi vào cuộc chiến. Anh đã nhập vào hàng
hàng lớp lớp những đoàn người nối tiếp câu thề giành lấy quê hương.
Mùa
hè năm sau, tôi cũng “lên đường nhập ngũ tòng quân”, nghĩa là chỉ sau anh bạn
H. một năm. Bạn bè tôi kẻ trước người sau lục tục vào lính. Chiến cuộc ngày
càng leo thang, ngày càng trở nên khốc liệt…
H.,
anh bạn cùng ngồi với tôi buổi chiều ấy, cùng nghe với tôi bài nhạc ấy, cùng ngắm
nhìn với tôi cảnh hoàng hôn trên bãi biển ấy, đã không còn nữa. Anh đã nằm sâu
dưới lòng đất. H. đã hy sinh trong chiến trận ít năm sau đó, như biết bao người
lính khác, như hơn một nửa bạn bè tôi đã nằm xuống trên khắp các mặt trận trong
cuộc chiến nghiệt ngã ấy. Chiến tranh như con quái vật khổng lồ đã nuốt chửng
bao nhiêu bè bạn tôi, anh em tôi.
Ðã
nhiều năm, nhiều năm trôi qua, hình ảnh một chiều nào biển xanh cát trắng và những
câu hát của Nguyễn Văn Ðông giữa biển trời mênh mông ấy vẫn còn đậm nét trong
ký ức tôi, mặc cho những lớp sóng của thời gian như từng đợt sóng biển cứ hàng
hàng lớp lớp xô nhau, xô nhau tràn mãi vào bờ, rồi lại rút xuống trong con
nước thủy triều của buổi hoàng hôn.
I.
Người lính Nguyễn Văn Ðông
Anh
bạn tôi khi còn sống đã thích bài nhạc ấy vì hai lẽ: thứ nhất, đấy là một bài
nhạc lính khá hay, gợi nhiều cảm xúc; thứ hai, nội dung bài hát khá “hợp tình hợp
cảnh” đối với anh ta vào lúc ấy.
Chỉ
nghe cái tựa thôi, “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”, người ta cũng biết được rằng
đấy là bài tình ca viết về lính, viết cho lính.
Người
đi giúp núi sông / hàng hàng lớp lớp chưa về… Không chỉ là chưa về, trong số
hàng hàng lớp lớp những người đi giúp núi sông ấy, đã có biết bao
người đi không bao giờ về lại nữa. Trong số những người đi mãi không về ấy có
anh bạn của tôi, người “yêu” câu hát ấy của Nguyễn Văn Ðông, trong lúc tôi và
những người lính khác đã may mắn hơn anh, đã sống sót trở về sau cuộc chiến; và
hơn thế nữa, đã được định cư trên miền đất tự do này để nhớ về những đồng đội
cũ đã hy sinh hay còn ở lại trong nước, kéo dài cuộc sống lây lất, âm thầm của
những người lính già trong buổi hoàng hôn của đời người.
Trong
số những người lính vẫn còn ở lại trong nước ấy có người lính Nguyễn Văn Ðông,
tác giả “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”. Ông hiện sống ở Saigon, và hầu như
không còn viết nhạc nữa. Ðiều này không có gì lạ, đối với một nhạc sĩ vốn sở
trường và khá nổi tiếng về những bài “nhạc lính”. Không chỉ vì chiến tranh đã
đi qua, hiện trạng đất nước chắc không phải là môi trường thuận lợi giúp ông
tìm lại được nguồn cảm hứng để tiếp tục sáng tác.
Nhạc
sĩ Nguyễn Văn Đông sinh trưởng tại Saigon (nguyên quán
thuộc tỉnh Tây Ninh). Ngay từ thời niên thiếu, năm 14 tuổi, ông đã có cơ hội học
hỏi về âm nhạc từ các giáo sư người Pháp tại trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Ðây cũng là nơi ông sáng tác ca khúc đầu tay năm 16 tuổi, “Thiếu Sinh Quân hành
khúc”, được trường chính thức sử dụng làm bài “Đoàn ca” trong các sinh hoạt tập
thể. Ông vừa là thành viên của dàn quân nhạc gồm trên 40 “nhạc sĩ” thiếu niên
do một nhạc trưởng người Pháp điều khiển, từng biểu diễn nhiều buổi hòa nhạc
trong các lễ duyệt binh long trọng, vừa là thành viên ban nhạc nhẹ của trường,
sử dụng thuần thục nhiều nhạc cụ như kèn, trống, mandolin, guitare hawaïenne.
Ngoài
sự nghiệp sáng tác, có thể kể ra được những nét chính về hoạt động âm nhạc của
chàng nghệ sĩ “tay súng, tay đàn” Nguyễn Văn Ðông:
Từ
năm 1958, là Trưởng Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân (gồm các nghệ sĩ và ca nhạc sĩ
tên tuổi như Kiều Hạnh, Kim Cương, Khánh Ngọc, Minh Diệu, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy
Xê, Trần Văn Trạch, Quách Đàm, Mai Ly, Kim Lan, Kim Oanh, Trang Thiên Kim, Mạnh
Phát, Minh Kỳ, Thu Hồ, Hoài Linh, vũ sư Trịnh Toàn…).
Đồng
thời, ông còn là Trưởng ban nhạc Tiếng Thời Gian của đài phát thanh Sài
Gòn, quy tụ các ca nhạc sĩ quen thuộc thuở ấy như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Tâm Vấn,
Minh Diệu, Hà Thanh, Anh Ngọc, Quách Đàm, Mạnh Phát, Thu Hồ, Trần Văn Trạch… (Từ
năm 1962, được tăng cường thêm các ca sĩ Thái Thanh, Thanh Thúy, Minh Tuyết,
Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Vũ, Hùng Cường… và ban nhạc Y Vân).
Từ
năm 1960 đến 1975, cùng với Huỳnh Văn Tứ, một người bạn và nhà doanh nghiệp ở
Sài Gòn, ông đứng ra thành lập các hãng dĩa và băng nhạc Continental và Sơn
Ca (được sự cộng tác của các nhạc sĩ tân và cổ nhạc Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng,
Lê Văn Thiện, Y Vân, Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm…) với nhiều chương trình âm nhạc
chọn lọc. Ðây cũng là trung tâm băng, dĩa nhạc đầu tiên thực hiện một số album
cho các ca sĩ. Một số ca sĩ “thành danh” trong làng ca nhạc trước năm 1975 như
Thanh Tuyền, Giao Linh, Phương Dung, Hà Thanh… đều nhờ sự dìu dắt và giới thiệu
của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Giám đốc Nghệ Thuật của các hãng dĩa này.
Nhạc
sĩ Nguyễn Văn Đông còn sử dụng các bút danh Vì Dân, Phượng Linh, Phương Hà… cho
các thể loại và chủ đề nhạc khác nhau. Ít người được biết, với các bút danh
trên, ngoài những sáng tác về tân nhạc, ông còn viết nhạc nền cho trên 50 vở tuồng
cải lương thuộc loại kinh điển ở miền Nam như “Mưa rừng”, “San hậu”, “Nửa đời
hương phấn”, “Sân khấu về khuya”, “Tiếng hạc trong trăng”… và hàng trăm chương
trình “tân cổ giao duyên”, một hình thức “phối hợp nghệ thuật” giữa tân và cổ
nhạc khá phổ biến trong đại chúng vào thời ấy.
“Là
chàng trai trẻ độc thân,” ông nói, trong một bài phỏng vấn, “với một mối tình
nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến ấy…”
(1)
Sau
những “bước nhẹ tênh” ấy là cánh cửa mở rộng cho “chàng trai trẻ độc thân” Nguyễn
Văn Ðông đặt những bước chân đầu tiên lên “đoạn đường chiến binh”, để từ đó dấn
thân vào cuộc sống mới đầy hứng thú và sôi động trong những năm dài quê hương
chìm ngập trong khói lửa chiến tranh. Chàng lính trẻ ấy từng phục vụ tại các
đơn vị tác chiến, từng đóng quân tại các vị trí được xem là “điểm nóng” của các
cuộc giao tranh như chiến khu Ðồng Tháp Mười, vùng Tam Giác Sắt…, từng tham dự
những trận chiến khốc liệt tại các địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông
Bình, Cái Cái (Tân Thành)…, từng được ân thưởng nhiều huy chương về các chiến
tích, trong đó có “Bảo quốc huân chương” là huân chương cao quý nhất của quân lực
Việt Nam Cộng Hòa.
Hầu
như khắp bốn vùng chiến thuật, nơi đâu cũng in hằn dấu chân người lính Nguyễn
Văn Ðông, đúng như “Mấy dặm sơn khê”, tên một bài nhạc khá nổi tiếng của ông
(nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông không phục vụ ở Cục Tâm Lý Chiến như nhiều người lầm
tưởng). Ông đã cầm súng chiến đấu vì yêu quê hương này, vì yêu dân tộc này. Ông
đã yêu đời lính như yêu mảnh đất này, như yêu đồng đội mình, như yêu người mình
yêu… Hình ảnh người lính chiến thể hiện qua dòng nhạc của ông xem ra cũng không
khác gì lắm với hình ảnh “người lính Nguyễn Văn Ðông”, cũng áo anh mùi thuốc
súng, cũng ngược xuôi theo đường mây, cũng tóc tơi bời lộng gió bốn
phương. Mặc dầu không hề tơ vương khanh tướng, vì người đi giúp
nước nào màng danh chi, nhưng do lòng “tận trung báo quốc” và các thành
tích chiến đấu, phục vụ, ông cũng leo dần lên mãi những nấc thang binh nghiệp với
chức vụ sau cùng là sĩ quan Tham mưu Cao cấp Bộ Tổng Tham Mưu. Có lẽ Ðại tá Trần
Văn Trọng (là nhạc sĩ Anh Việt, tác giả “Bến cũ”, “Thơ ngây”…) và ông được kể
là những người lính có cấp bậc cao nhất trong số các nhạc sĩ phục vụ trong quân
ngũ.
Sau
“ngày tàn chiến cuộc” năm 1975, như số phận của hàng hàng lớp lớp sĩ
quan trong quân đội, ông đã phải lầm lũi đi vào những trại tập trung, những lò
cải tạo để trả giá cho các thành tích trong quân ngũ và trong hoạt động âm nhạc.
Không
rõ ông đã “học tập” được những gì, có điều là cơ thể ông đã “tiếp thu” đủ loại
mầm bệnh trong những năm “cải tạo” ấy khiến sức khỏe ông có lúc suy kiệt đến trầm
trọng. Chứng phong thấp, căn bệnh quái ác, đã khiến các đốt xương ngón tay của
ông sưng tấy lên, các ngón tay co quắp đến gần như không còn cử động được nữa.
“Anh
xem này,” ông nói với người bạn tù ở cùng trại Suối Máu, giọng bùi ngùi. “Bàn
tay tôi như thế này là coi như ‘phế bỏ võ công’ rồi, làm sao còn chơi đàn được
nữa!”
Tay
đã thế, chân lại càng tệ hơn, các khớp xương đầu gối biến dạng và đau nhức đến
mức ông phải nằm điều trị nhiều năm trong các bệnh viện ở Sài Gòn trước khi rời
bỏ đôi nạng gỗ để đi đứng được bình thường trở lại.
Về
đây ngơ ngác chim bay tìm đàn
Về
đây hoang vắng lạnh buốt cung đàn
Như
là câu hát trong bài “Về mái nhà xưa” của ông, sau đúng 10 năm “học tập cải tạo”,
tác giả bài nhạc ấy đã về lại sau cuộc chiến, về lại sau những năm đọa đầy, về
lại với một thân xác đầy tật bệnh, với một tâm hồn đầy thương tích. Xa lạ trước
cuộc sống mới, trước một xã hội có lắm đổi thay sau cuộc bể dâu, ông bày tỏ
lòng hối tiếc về những năm dài lãng phí, không tìm được chút cảm hứng nào cho
hoạt động âm nhạc, không đóng góp được chút gì có ý nghĩa cho đời. Ðối với con
người nghệ sĩ tài hoa, đầy sức sáng tạo, và có thói quen làm việc không ngưng
nghỉ, không mệt mỏi như ông thì, nói như ông, đấy quả là một sự “hối tiếc vô bờ”.
“Vì
sao ông không xin định cư ở nước ngoài trong lúc có đủ điều kiện của người tù cải
tạo?” Trả lời câu hỏi này, ông cho biết, “Do những căn bệnh ngặt nghèo tưởng
như ‘hết thuốc chữa’ và do tinh thần suy sụp đến tột cùng, có lúc tôi đã nghĩ rằng
mình chẳng còn sống được bao lâu nên chẳng còn thiết tha đến bất cứ chuyện gì,
chỉ mong sao tâm trí được thảnh thơi ở cuối đời.”
Vậy
mà, nhờ “thần dược” hay nhờ… phép lạ, ông vẫn sống sót được đến ngày hôm nay. Vợ
chồng ông có một cửa hàng tạp hóa nhỏ (nơi gia đình ông cư ngụ), là nguồn thu
nhập chính cho “kinh tế gia đình”. Tuy sức khoẻ có sa sút, tuy cuộc sống có chật
vật, “người lính Nguyễn Văn Ðông” vẫn có lúc quên đi nỗi đau của riêng mình, vẫn
có lúc để lòng mình nghiêng xuống những số phận rủi ro, những số kiếp hẩm hiu của
bao người kém may mắn hơn mình. Những bản tin tôi đọc được ở trong, ngoài nước
nói về các công tác cứu trợ những mảnh đời rách nát, những kiếp người lầm than,
vẫn nhắc đến bàn tay nhân ái, trái tim nhân hậu của người lính, người nhạc sĩ
Nguyễn Văn Ðông.
“Người lính Nguyễn
Văn Đông”, 1971
*
*
03/02/2018
hình bìa một số bản nhạc
của Nguyễn Văn Đông
II.
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông
Nhạc
lính, nói sao đi nữa cũng từng là “nhạc thời trang” ở miền Nam Việt Nam một thời
nào. Loại nhạc thời trang “đặc biệt” này khá phổ biến và có tuổi thọ đo được bằng
chiều dài của cuộc chiến tranh hai miền Nam-Bắc, nghĩa là kéo dài hơn bất cứ nhạc
thời trang nào khác. Còn chiến tranh là còn nhạc lính, và nhạc này có lúc trở
thành cực thịnh vào thời kỳ cường độ cuộc chiến gia tăng đến mức khốc liệt nhất.
Trong
những năm dài chinh chiến ấy, có rất nhiều ca khúc khá hay viết về người lính
và đời lính của một số tác giả ở trong và ngoài quân ngũ, ngợi ca tinh thần chiến
đấu anh dũng, sự hy sinh cao cả và thầm lặng của người lính chiến. “Nhạc lính
Nguyễn Văn Ðông” là một trong số ấy. Hơn thế nữa, nhạc lính của ông có những
nét rất “riêng”, mang sắc thái đặc biệt, được rất nhiều người yêu nhạc (lính hoặc
không phải lính) yêu thích.
Trong
phạm vi nói về “nhạc lính” của Nguyễn Văn Ðông, những ca khúc quen thuộc của
ông nhưng không kể là “nhạc lính” (đôi lúc được ông ký dưới những tên khác) sẽ
không đề cập trong bài này hoặc chỉ nói phác qua.
Những
năm trước ngày chiến tranh kết thúc, ngoài những bài “chiến đấu ca” trong quân
đội và những bài hát cộng đồng, có vẻ những bài nhạc đề cao lý tưởng, chính
nghĩa, tinh thần chiến đấu và hy sinh của người lính ngày càng ít đi (trừ ít
bài ngợi ca những tên tuổi cá biệt của người lính đã đền nợ nước, như “Huyền sử
ca một người mang tên Quốc” của Phạm Duy, “Anh không chết đâu em”, “Người ở lại
Charlie” của Trần Thiện Thanh…). Không còn nghe thấy nữa những bài nhạc một thời
làm nức lòng chiến đấu của người lính vì nước quên mình:
Khi
nước nhà phút ngả nghiêng
em
mơ người trai anh dũng
mang
thân thế hiến giang san
chí
quật cường hiên ngang… (“Chiến sĩ của lòng em”, Trịnh Văn Ngân)
Em
chúc cho chàng lập chiến công oai hùng
vang
vang lời chiến thắng
muôn
thu danh chàng lừng lẫy với núi sông… (“Chàng đi theo nước”, Hiếu Nghĩa)
Anh
đi mai về chiến thắng
khi
súng quân thù thôi vang trên non sông
tươi
thắm màu cờ / vui reo trên kinh thành… (“Anh đi mai về”, Hoàng Nguyên)
Anh
đi xây chiến thắng / dưới màu cờ quật cường
cho
loài người hòa bình… (“Dặn
dò”, Thanh Châu)
Anh
sẽ là anh đàn em nhỏ
là
con của mẹ giữ quê hương… (“Tình quê hương”, Ðan Thọ & Phan Lạc Tuyên)
Không
quên lời xưa đã ước thề
dâng
cả đời trai với sa trường… (“Anh đi chiến dịch”, Phạm Ðình Chương)
Và
ít bài nhạc khác như “Lá thư người chiến sĩ” (Phạm Ðình Chương), “Lá thư gửi mẹ”
(Nguyễn Hiền & Thái Thủy), “Bức tâm thư” (Lam Phương), “Anh về thủ đô” (Y
Vân), “Biệt kinh kỳ” (Minh Kỳ & Hoài Linh), “Chiều biên khu” (Tuấn Khanh
& Châu Ngân), “Trên bốn vùng chiến thuật” (Trúc Phương), “Mười sáu trăng
tròn” (Trần Thiện Thanh)…
Nhạc
lính Nguyễn Văn Ðông, trong lúc ấy, trước sau vẫn dạt dào tình yêu quê hương, đất
nước, vẫn ngợi ca người lính chiến, vẫn đề cao lý tưởng và chính nghĩa cuộc chiến
đấu của quân dân miền Nam (mà không phải… “tuyên truyền tâm lý chiến”).
Nhạc
lính Nguyễn Văn Ðông không có những “tô son điểm phấn” cho đời
lính kiểu “anh tiền tuyến, em hậu phương”, “người yêu của lính”… Trong những lời
nhạc của ông không có những mộng mơ, lãng mạn kiểu Anh là lính đa tình…
(“Tình lính”, Y Vân), hay Ba-lô thay người tình yêu dấu… (“Ai nói với
em”, Minh Kỳ & Huy Cường), hay Những đóm mắt hỏa châu là hoa đăng ngày
cưới… (“Những đóm mắt hỏa châu”, Hàn Châu), cũng không có những lời thở
than hoặc cay đắng như Nhiều đông lắm hạ nối tiếp đi qua / thiếu bóng đàn
bà… hay Đến với tôi / hãy đến với tôi / đừng yêu lính bằng lời… (“Kẻ
ở miền xa”, Trúc Phương) vân vân… (Người viết chỉ nêu những khác biệt, không có
ý bình phẩm).
Nhạc
lính Nguyễn Văn Ðông, như đời lính của ông, là cuộc chiến đấu gian khổ, là những
lần xông pha trận mạc, là những cuộc hành quân không giống như là đi… picnic
để đem cánh hoa rừng về tặng em (“Người yêu của lính”, Anh Chương), mà
luôn cận kề những bất trắc, những hiểm nguy… Ở một đôi bài Nguyễn Văn Ðông,
giai điệu có lúc gần gũi với nét nhạc phóng khoáng, mênh mang của nhạc sĩ Lâm
Tuyền, tác giả “Tiếng thời gian”, “Khúc nhạc ly hương”, “Hình ảnh một buổi chiều”,
“Nhớ người viễn xứ” (Nguyễn Văn Đông & Lâm Tuyền)…
Lời
nhạc Nguyễn Văn Ðông như có “khẩu khí” riêng, đôi lúc phảng phất cái khẩu khí đầy
vẻ thi vị trong thơ Quang Dũng, Thâm Tâm hoặc cả trong “Chinh phụ ngâm khúc”, tạo
nên sắc thái đặc biệt tiêu biểu cho dòng nhạc lính của ông. Có thể nói, Nguyễn
Văn Ðông là một trong những nhạc sĩ sử dụng sớm nhất những từ ngữ “đường mây”,
“sơn khê”, “giang đầu”, “khanh tướng”, “sa trường”, “biên thùy”, “khu chiến”,
“tang bồng”, “hội trùng dương”…
Những
từ ngữ khá cổ điển ấy, qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ thích ứng và tài tình, lại
có vẻ rất phù hợp với chất “lính tráng”, làm dậy lên những cảm xúc rất “lính”,
khiến nhạc lính Nguyễn Văn Ðông như có một “khí hậu” riêng, mang mang thi vị của
hơi thơ cổ, nhuốm vẻ hùng tráng và lãng mạn tựa bức họa đẹp và buồn của một “thuở
trời đất nổi cơn gió bụi”. (2)
Anh
như ngàn gió / ham ngược xuôi theo đường mây… (“Mấy dặm sơn khê”)
Ngoài
mưa khuya lê thê / qua ngàn chốn sơn khê… (“Mấy dặm sơn khê”)
Sao
còn đứng ngóng nơi giang
đầu?… (“Chiều mưa biên giới”)
Lòng
trần còn tơ vương khanh
tướng… (“Chiều mưa biên giới”)
Thương
mầu áo gửi ra sa
trường… (“Chiều mưa biên giới”)
Chốn
biên
thùy này xuân tới chi?… (“Phiên gác đêm xuân”)
Xưa
từ
khu chiến về thăm xóm… (“Sắc hoa màu nhớ”)
Lòng
này thách với tang
bồng… (“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Hội
trùng dương hát câu sum vầy… (“Hải ngoại thương ca”)
“Đường
mây” chẳng hạn (Đường mây chân núi xa…, Ngược xuôi theo đường mây…)
là từ ngữ rất cũ, từ thuở… “Chinh phụ ngâm khúc” (“Sứ trời sớm giục đường
mây”…), được đưa vào lời nhạc Nguyễn Văn Ðông, lại như có vẻ “mới” và nghe
rất “lính”.
Trong
một lần trả lời phỏng vấn báo chí trước năm 1975, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cho
biết ông chịu ảnh hưởng ít nhiều nền văn hóa Pháp trong các sáng tác âm nhạc và
nhắc đến tên vài bài nhạc cũ của những thập niên 1940’s, 1950’s như “J’attendrai”,
“Ma Normandie”, “La vie en rose”…
Nhạc
sĩ Nguyễn Văn Đông, nghệ sĩ Trần Văn Trạch và nhạc sĩ Lê Thương
III.
“Lòng này thách với tang bồng”
Người
lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông là lính trận, là lính tác chiến, là những người
lính áo anh mùi thuốc súng, những người lính vừa trở về từ chiến trường
lửa đạn.
Hơn
bất cứ một nhạc sĩ nào khác viết về lính, nhạc Nguyễn Văn Ðông làm nổi bật lý
tưởng của người quân nhân cầm súng chiến đấu. Mặc “ai công hầu, ai khanh tướng”,
người đi vì lý tưởng đã vẽ lên những hình tượng đẹp, lãng mạn và đầy hào khí của
những chàng Kinh Kha thời đại.
Người
đi giúp núi sông
hàng
hàng lớp lớp chưa về / hàng hàng nối tiếp câu thề
giành
lấy quê hương
Người
đi giúp nước nào màng danh chi
cầu
cho đất nước vượt ngàn gian nguy… (“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Lòng
trần còn tơ vương khanh tướng
thì
đường trần mưa bay gió cuốn / còn nhiều anh ơi!… (“Chiều mưa biên giới”)
“Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh”, (3) những chàng trai đất Việt nặng một
lời thề, mang tổ quốc trên vai, mang tình yêu nước trong tim, hàng hàng lớp lớp
theo nhau lên đường. Từng đoàn người tiếp bước những đoàn người, đi viết tiếp
những trang sử hào hùng của dân tộc Việt.
Đời
tôi quân nhân / chút tình gửi cho núi sông… (“Sắc hoa màu nhớ”)
Nước
non còn đó một tấc lòng
không
mờ xóa cùng năm tháng… (“Mấy dặm sơn khê”)
Đời
dâng cho núi sông
Dù
ngàn nắng lửa mưa dầu
lòng
người nhất quyết không đầu
giành
lấy mai sau… (“Khúc
tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Khi
lòng đã nhất quyết không đầu, khi đời đã dâng cho núi sông thì…
“Mẹ thà coi như chiếc lá bay” (4)
Mẹ
hiền ơi chớ buồn vì con / nước non chưa tròn… (“Lá thư người lính chiến”)
Chút
tình riêng đành gác lại, vì tình nước sâu hơn tình lứa đôi.
Đường
đi biên giới xa / Lòng này thách với tang bồng
Đừng
sầu má ấy phai hồng / buồn lắm em ơi!...
Hỡi
người anh thương / chưa trọn thề ước
Nhưng
tình đất nước / ôi, lớn lao không đành lòng
dệt
mối thắm riêng tư… (“Khúc
tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Vầng
trăng xẻ đôi / vẫn in hình bóng một người… (“Chiều mưa biên giới”)
“Chiều
mưa biên giới” (1956, được sáng tác tại Đồng Tháp Mười, biên giới Việt-Miên), một
trong những bài nhạc lính quen thuộc của Nguyễn Văn Ðông, là trường hợp khá đặc
biệt, nổi tiếng do hai sự kiện: thứ nhất, nhờ sự trình diễn thành công của nghệ
sĩ Trần Văn Trạch qua các làn sóng phát thanh và truyền hình Paris, dẫn
đến một hợp đồng thu thanh bài hát bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp với một hãng
dĩa lớn của Pháp (sự kiện chưa từng có trong lịch sử tân nhạc Việt thời ấy); và
thứ hai, nhờ quyết định… cấm phổ biến của Bộ Thông Tin thời bấy giờ, với lý do
là lời nhạc không thích hợp.
Vì
sao cấm phổ biến? Vì sao “lời nhạc không thích hợp”? Nghe lại “Chiều mưa biên
giới”, tôi không thấy có “vấn đề” gì đáng gọi là cấm kỵ. Có thể là những lời lẽ
như thế này:
Chiều
mưa biên giới anh đi về đâu
sao
còn đứng ngóng nơi giang đầu?…
Về
đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay?…
Người
lính chiến… mất phương hướng, không biết đi đâu, về đâu! Hoặc những câu hát:
Kìa
rừng chiều âm u rét mướt…
Một
vùng mây nước cho lòng ai thương nhớ ai…
Cờ
về chiều tung bay phất phới
gợi
lòng này thương thương nhớ nhớ…
Người
đi khu chiến thương người hậu phương…
Người
lính chiến “nhìn trời hiu quạnh”, lòng còn vương vấn chút tình… riêng.
Nếu
không phải vì những lời nhạc kể trên, có thể là do giai điệu u uẩn, man mác của
bài nhạc làm… nản lòng binh sĩ, làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân đội
chăng(!).
Dù
với bất cứ lý do gì, những câu hát này thực sự chẳng thấm tháp vào đâu so với
những bài bản “phản chiến” ít năm sau đó, phổ biến tràn lan một thời mà chẳng
ai cấm nổi, chẳng hạn Tôi có người yêu chết trận Pleime… (“Tình ca người
mất trí”, Trịnh Công Sơn), Quyết chối từ chém giết anh em… (“Chính chúng
ta phải nói”, Trịnh Công Sơn), hoặc Anh trở về bại tướng cụt chân… (“Kỷ
vật cho em”, Phạm Duy & Linh Phương), Ngày mai đi nhận xác chồng…/ Anh
lên lon giữa hai hàng nến chong… (“Tưởng như còn người yêu”, Phạm Duy &
Lê Thị Ý)…
“Chiều
mưa biên giới” bị cấm phổ biến chỉ vì ra đời… sớm vài năm, trở thành một trong
những bài nhạc đầu tiên được khoác cho cái tên gọi là “phản chiến”.
“Chiều
mưa biên giới” trở thành bài nhạc lính tiêu biểu của Nguyễn Văn Ðông, gắn liền
với tên tuổi của ông, gắn liền với giọng ca Trần Văn Trạch, gắn liền với câu
hát Lòng trần còn tơ vương khanh tướng / thì đường trần mưa bay gió cuốn /
còn nhiều anh ơi!… vừa mang tính “triết lý” về đời lính, vừa đượm vẻ… “lãng
mạn Nguyễn Văn Ðông”.
Nghệ
sĩ Trần Văn Trạch hát “Chiều mưa biên giới” tại đài truyền hình Pháp (1961)
IV.
Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông
“Chàng
tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
xếp
bút nghiên theo việc đao cung” (2)
Trong
suốt chiều dài lịch sử của dân tộc luôn có những năm thái bình thịnh trị và những
năm chinh chiến điêu linh. Khi vận nước ngả nghiêng, những chàng trai thời loạn
đã hiến dâng tuổi trẻ, lên đường theo tiếng gọi của non sông, bỏ lại sau lưng
những mộng ước chưa tròn. Hình tượng người lính chiến qua dòng nhạc Nguyễn Văn
Ðông, ngoài lý tưởng, lòng yêu nước thương dân, tinh thần hy sinh và chiến đấu,
vẫn không thiếu nét lãng mạn của “Chí lớn chưa về bàn tay không, thì không bao
giờ nói trở lại…” (4)
Nhìn
em muốn nói chuyện người Kinh Kha
ngại
khơi nước mắt nhạt nhòa môi em… (“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Mấy
ai ra đi hẹn về dệt nốt tơ duyên… (“Mấy dặm sơn khê”)
Lãng
mạn Nguyễn Văn Ðông đẹp tựa câu thơ cũ, “Chàng từ đi vào nơi gió cát…”, (2)
câu thơ về những chàng trai, những chàng lính chiến ôm mộng hải hồ, bạn cùng
sương gió. Trên khắp các nẻo đường đất nước, từ miền địa đầu giới tuyến đến những
nơi đầu sóng ngọn gió, từ những tuyến đầu lửa đạn đến những tiền đồn heo hút xa
xăm, nơi đâu cũng in hằn dấu chân người lính.
Anh
như ngàn gió / ham ngược xuôi theo đường mây
Tóc
tơi bời lộng gió bốn phương… (“Mấy dặm sơn khê”)
Lãng
mạn Nguyễn Văn Ðông đẹp tựa huyền thoại “trăng treo đầu súng” trong một “phiên
gác đêm xuân” giữa vùng hành quân đồi núi chập chùng.
Xác
hoa tàn rơi trên báng súng
ngỡ
rằng pháo tung bay / ngờ đâu hoa lá rơi… (“Phiên gác đêm xuân”)
Đêm
nằm gối súng / chung ánh trăng
cho
người này gợi nhớ thương người kia… (“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Câu
hát gợi nhớ câu lục bát Nguyễn Du
“Vầng trăng ai xẻ làm
đôi
Nửa in gối chiếc, nửa
soi dặm trường”
Lãng
mạn Nguyễn Văn Ðông không chỉ ở những bản tình ca gợi nhớ những mùa xuân thanh
bình một thuở, như là Chiều nay hoa xuân bay nhiều quá… hay là Chiều
nay thấy hoa cười chợt nhớ một người… (“Nhớ một chiều xuân”), mà còn tìm thấy
trong những câu hát của một mùa chinh chiến.
Trong
khói lửa chiến tranh, bên cạnh những nỗi bất trắc, tình yêu vẫn nở hoa, như những
đóa hồng vẫn nở bên những hầm hố và hàng rào kẽm gai. Vẫn có chút tình yêu làm
quà tặng cho những người lính cầm súng chiến đấu, vẫn có những ánh mắt, nụ
cười xinh tươi trong câu chuyện tình thời chiến, câu chuyện tình “người
hùng và giai nhân”.
Còn
đây giây phút này
còn
nghe tiếng hát / nụ cười xinh tươi
còn
trông ánh mắt / còn cầm tay nhau… (“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Tình
yêu thường xen lẫn thân phận người lính xa nhà, xa người mình thương yêu.
“Chàng thì đi cõi xa mưa gió / Thiếp lại về buồng cũ gối chăn”. (2)
Một người đi, một người ở lại và những năm chờ tháng đợi mỏi mòn.
Một
người gối chiếc cô phòng
còn
người góc núi ven rừng / chân mây đầu gió… (“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Con
đường đấu tranh gian khổ còn dài, những chuyến về thăm, những lần về phép, người
lính chiến dừng chân trong chốc lát, rồi lại lên đường, lại miệt mài đi khi quê
hương còn tiếng súng, khi máu xương còn rơi…
Anh
đến thăm / áo anh mùi thuốc súng…
Anh
đến đây / rồi anh như bóng mây…
Anh
hỡi anh / đường xa vui đấu tranh… (“Mấy dặm sơn khê”)
Tôi
lại đi giữa trời sương gió
Mầu
hoa thắm vẫn sống trong tôi… (“Sắc hoa mầu nhớ”)
Người
nghe đôi lúc bắt gặp đâu đó trong lời nhạc Nguyễn Văn Ðông những câu hát thật
là đẹp.
Cầm
tay nhau đi anh
tơ
trời quá mong manh…
(“Mấy dặm sơn khê”)
“Tơ
trời”?… Là sợi nắng lung linh hay sợi mưa phùn giăng mắc? Tơ trời mong manh hay
những phút giây gần nhau cũng mong manh như những sợi… tơ trời?
Người
lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông vẫn có những phút để hồn mình lắng xuống, để
lòng mình bâng khuâng vì một sắc hoa, một mầu áo…
Chiều
hành quân nay qua lối xưa
giữa
một chiều gió mưa / xác hoa hồng mênh mông…
Nhìn
mầu hoa vừa tan tác rơi
nhớ
muôn vàn nhớ ơi / hát trong mầu hoa nhớ… (“Sắc hoa mầu nhớ”)
Cuộc
đời lính chiến, nhờ vậy, cũng sẽ đẹp thêm lên một chút.
Người
lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông không phải là không có trái tim đắm say mộng
mơ (“Ai nói với em”, Minh Kỳ & Huy Cường). Những ước mơ của người lính
thật đơn sơ và trắng như mây chiều.
Ước
mong nhiều đời không (cho) bấy nhiêu
vì
mơ ước trắng như mây chiều… (“Phiên gác đêm xuân”)
“Mơ
ước” gì vậy? Nếu không phải là nỗi ước mơ của những người đi đấu tranh để mang
về mùa xuân mới cho quê hương.
Mong
sao nước Việt đời đời
anh
dũng oai hùng chen chân thế giới…
Người
về đây giữa non sông này
Hội
trùng dương hát câu sum vầy
Về
cho thấy con thuyền nước Nam
đi
vào mùa xuân mới sang
xa
rồi ngày ấy ly tan… (“Hải
ngoại thương ca”)
V.
“Người lính già không bao giờ chết”
Nhạc
sĩ Nguyễn Văn Đông, Xuân 2013
“Hải
ngoại thương ca” cũng là trường hợp đặc biệt khác, sau “Chiều mưa biên giới”.
Không rõ động lực nào, hoàn cảnh nào đã khiến nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cho ra đời
ca khúc ấy. Trước và sau ông hầu như chưa có nhạc sĩ nào viết về đề tài tương tự.
Ðiều thú vị, các “cán bộ” văn hóa văn nghệ ở trong nước đã lầm tưởng “Hải ngoại
thương ca” là “sáng tác mới” của Nguyễn Văn Ðông, đến lúc hiểu ra rằng đấy là
bài nhạc cũ (1963), đã phải thốt lên, “Làm sao mà ở miền Nam ngày trước lại có
bài nhạc hay đến như thế, lại phù hợp với hiện tình đất nước đến như thế!”
Cái
“hay” trong lời ngợi khen ấy có thể hiểu là cái hay của nội dung bài nhạc được
diễn dịch theo chiều hướng có lợi và phù hợp với chính sách kiều vận, với chủ
trương “hòa hợp và hòa giải dân tộc” của “nhà nước ta” đối với “khúc ruột ngàn
dặm” là cộng đồng người Việt ở nước ngoài, một “bộ phận không thể tách rời” của
dân tộc. Cái “hay” ấy là cái hay của những câu hát được xem là thể hiện tâm tư tình
cảm của “bà con Việt kiều yêu nước” trong những chuyến về thăm quê nhà.
Một
mùa thương kết muôn hoa lòng
Người
về đây nối
câu tâm đồng…
Tôi
đi giữa trời bồi hồi
Cờ
bay phất phới quên
chuyện ngày xưa…
Người
về đây giữa non sông này
Hội
trùng dương hát
câu sum vầy
Không
có gì ngạc nhiên khi các báo trong nước đưa tin “Hải ngoại thương ca” là một
trong những bài đầu tiên được Cục Nghệ thuật Biểu diễn thuộc Bộ Văn hóa Thông
tin nhanh chóng duyệt qua, trong số 18 ca khúc của Nguyễn Văn Ðông được phép lưu
hành trong nước kể từ năm 2003. (Trong số, có vài ca khúc quen thuộc như “Nhớ một
chiều xuân”, “Về mái nhà xưa”, “Thầm kín”, “Khúc xuân ca”, “Núi và gió”, “Trái
tim Việt Nam”… Tất nhiên là không có những bài… nhạc lính).
Trong
lúc “Hải ngoại thương ca” được viết với nhạc điệu Slow Rock khá thịnh hành giữa
thập niên 1960’s, thể hiện tình cảm phấn chấn như những bước chân đi tới, như
niềm tin phơi phới về một vận hội mới, “Mấy dặm sơn khê” có tiết tấu chậm rãi
hơn, tình cảm sâu lắng hơn, phác họa nét đẹp của người lính ngược xuôi trên khắp
các nẻo đường đất nước. Một bài nhạc lính khác, “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”,
là bức tranh hoành tráng về đời lính được vẽ bằng những giai điệu dạt dào tình
nước, khi réo rắt, khi trầm bổng, khi lãng mạn như một bản tình ca, khi hùng
tráng như một khúc quân hành.
Nhạc
lính Nguyễn Văn Ðông từng được thể hiện qua những giọng ca khác nhau, từ Thái
Thanh, Lệ Thanh, Hà Thanh, Khánh Ngọc, Lệ Thu… đến Trần Văn Trạch, Hùng Cường,
Thanh Hùng, Duy Trác, Elvis Phương, Anh Khoa… và cả những ca sĩ “học trò” của
ông. “Chiều mưa biên giới” phù hợp với chất giọng “nam bộ” và làn hơi ấm áp của
nghệ sĩ Trần Văn Trạch, trong lúc “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp” lại phù hợp
với chất giọng mềm mại, ngọt ngào của Hà Thanh quyện với giọng ténor
vang lộng của Hùng Cường. Người nghe “Mấy dặm sơn khê” qua những giọng Thái
Thanh và Hà Thanh đều nhận ra mỗi giọng có cái hay riêng, có nét đẹp riêng
trong cách thể hiện.
Hình
tượng người lính chiến, khắc họa qua dòng nhạc Nguyễn Văn Ðông, như được “nâng”
lên ở tầm mức cao hơn và đẹp hơn. Lý tưởng của những người trai anh dũng hiến
thân vì tổ quốc như được tô đậm hơn, chính nghĩa của cuộc chiến đấu gian khổ của
quân dân miền Nam như được soi sáng hơn. Người đời, qua đó, thấy yêu mến
hơn và gần gũi hơn những người lính, thấy cảm kích và ngưỡng phục những hy sinh
cao cả và thầm lặng của người chiến binh vì nước quên mình. Không thể nào không
cám ơn ông, cám ơn người nhạc sĩ đã gieo vào lòng người những mối cảm xúc sâu đậm,
những ấn tượng đẹp và sắc nét về người lính và đời lính.
Chiến
tranh đã đi qua, những bài nhạc lính như thế ngày nay ít còn được nghe hát, thế
nhưng dư âm lời ca tiếng nhạc của một mùa chinh chiến ấy và hình tượng hào hùng
của người lính chiến quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đọng lại mãi trong tâm
tưởng biết bao người, như câu nói bất hủ của một danh tướng Hoa Kỳ, “Những người
lính già không bao giờ chết; họ chỉ nhạt mờ đi thôi.” (“Old soldiers never
die; they just fade away.” – Douglas MacArthur).
Sau
bao mùa tang thương dâu bể, sau bao nhiêu giông tố dập vùi, “người lính già”
Nguyễn Văn Ðông, ở độ tuổi gần 80, vẫn một niềm tin sắt son vào hồn thiêng sông
núi, vẫn còn nguyên vẹn trái tim chàng lính trẻ nặng trĩu tình quê, tình nước của
những ngày đầu bước chân vào đời quân ngũ.
Non
nước ơi!
Hồn
thiêng của núi sông / kết trong lòng thế hệ
nghìn
sau nối nghìn xưa… (“Mấy
dặm sơn khê”)
Nghìn
sau nối nghìn xưa,
những thế hệ tiếp nối những thế hệ, những bàn chân tiếp nối những bàn chân, rộn
ràng theo nhau lên đường đi xây lại những ước mơ chưa thành tựu của những người
đã nằm xuống cho một vận hội mới về trên quê hương.
“Mai
sau dù có bao giờ”, (5) nghe lại những khúc hát về người lính và đời
lính, những khúc hát của một mùa nào ly loạn, hẳn người đời vẫn còn nhớ tới những
người hùng tên tuổi hay những chiến sĩ vô danh, những người con yêu của tổ quốc,
những người “nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây”, (2) những người đã
hy sinh cả máu xương, đã hiến dâng cả tuổi trẻ, cả những năm tháng tươi đẹp nhất
của đời người cho tình yêu đất nước.
Chinh
chiến đã qua một thì,
(6) thế nhưng những bài hát về người lính anh dũng cầm súng chiến đấu
để bảo vệ từng tấc đất quê hương, như những bài nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, mỗi
lần nghe lại là mỗi lần nghe dậy lên một niềm kiêu hãnh, một nỗi tự hào về một
thiên anh hùng ca của dân tộc.
Cám
ơn anh, người lính già, người nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông.
Lê Hữu
(2011)
—————————
(1)
Trả
lời phỏng vấn,
Hoàng Lan Chi (ĐPT “Việt Nam hải ngoại”, WA DC, 19/5/07)
(2) Chinh phụ ngâm
khúc, Ðặng Trần Côn/Ðoàn Thị Ðiểm
(3)
Tây
tiến,
thơ Quang Dũng
(4)
Tống
biệt hành,
thơ Thâm Tâm
(5)
Kiều, thơ Nguyễn Du
(6)
Người
về, nhạc
Phạm Duy
Nguồn
ảnh: nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
“Mấy
dặm sơn khê”, Nguyễn Văn Đông / Hà Thanh:
“Chiều
mưa biên giới”, Nguyễn Văn Đông / Trần Văn Trạch:
Phụ
Lục:
“Người
Lính trong nhạc Nguyễn Văn Đông” – Chương trình Thơ Nhạc phát thanh trên đài
VOA (2008) do Bích Huyền phụ trách.
(Xin
bấm vào dưới đây để nghe)
©T.Vấn
2018
No comments:
Post a Comment