Wednesday, 21 March 2018

TRẬN CHIẾN MẬU DỊCH TRUNG - MỸ MỞ MÀN (Ngô Nhân Dụng)




Ngô Nhân Dụng
March 20, 2018

Tòa Bạch Ốc sẽ đưa ra danh sách một số hàng hóa để tăng thuế nhập cảng, từ Trung Quốc vào Mỹ. Lúc đầu, việc đánh thuế nhắm giảm bớt $100 tỷ trong số gần $400 tỷ thâm thủng mậu dịch của Mỹ. Con số đó quá lớn; dù có muốn Bắc Kinh cũng không thể nào làm nếu không muốn gây xáo trộn lớn. Cho nên bây giờ Mỹ chỉ đánh thuế trên $60 tỷ hàng nhập mà thôi.

Ngay sau đó, một nhóm các công ty Mỹ đã ký tên yêu cầu chính phủ Mỹ hãy khoan khoan. Họ đề nghị hãy dành thời giờ tham khảo các xí nghiệp và các chuyên gia xem các hậu quả trên đời sống kinh tế Mỹ. Đứng đầu trong danh sách các công ty ký tên là những xí nghiệp quốc tế lớn nhất hiện nay: AppleAlphabet(Google), IBM , Nike và Walmart. Ông Dean Garfield là người xướng suất bức thư trên, đại diện cho hội đồng các công ty kỹ thuật, giải thích rằng họ biết việc tăng thuế nhập cảng không công hiệu, không giúp giảm bớt số khiếm hụt mậu dịch. Ngược lại, tăng thuế có thể gây tai hại cho “việc buôn bán” của cả hai bên.

Có lẽ chính phủ Trump sẽ không quan tâm đến các khuyến cáo này. Vì trên đại thể, nếu xung đột biến thành “chiến tranh mậu dịch,” nước Mỹ vẫn ở thế mạnh. Tuy nhiên, cuộc “chiến tranh” sẽ rất phức tạp, không dễ thắng như ông Trump từng quảng cáo!

Trong số những đại công ty trên đây, Apple, Google, IBMNike và Walmart thì Nike và Walmart có thể chỉ ảnh hưởng trực tiếp nếu xung đột quan thuế giữa Mỹ và Trung Cộng biến thành chiến tranh mậu dịch. Walmart mua hàng rẻ từ Trung Quốc để bán, kiếm lời. Nếu những món hàng đó bị đánh thuế cao, chúng sẽ không còn bán rẻ được nữa. Nike thuê rất nhiều người bên Tàu làm giầy dép và các cụng cụ thể thao khác. Mai mốt chính những món hàng đó cũng bị đánh thuế và tăng giá. Nike và Walmart muốn bảo vệ quyền lợi của họ.

Nhưng còn ba công ty khác, Apple, Google, IBM, món lợi chính họ kiếm được không phải chỉ là hàng hóa làm bên Tầu, mà là những “sản phẩm trí tuệ.” Một chiếc máy điện thoại của Apple ráp ở bên Tàu thực ra chỉ mang lại cho kinh tế nước Tàu khoảng 5% giá bán chiếc máy. Còn 95% giá trị được trả về cho các nước khác, như một bộ phận này làm ở Nam Hàn, bộ phận kia là ở Nhật Bản, vân vân; và khoảng 50% được trả về cho công ty Apple ở Mỹ vì nó làm chủ các bằng sáng chế và nhãn hiệu Apple – những thứ “hàng” vô hình.

Ngay một công ty sản xuất “hàng hóa” như Nike, cũng bán “sản phẩm trí tuệ.” Trong giá bán một chiếc giầy Nike, phần tiền được chia cho các công nhân nhà máy bên Tàu, hay bên Việt Nam, rất nhỏ. Trong số những thứ vật liệu làm nên chiếc giầy được khâu, ráp ở Trung Quốc nhiều thứ chế tạo từ nước khác đem vô. Trong mỗi thứ gọi là “vật liệu” đó, lại cũng có những “sản phẩm trí tuệ.” Nếu có một thứ cao su mới, một thứ “vải” nhân tạo mới, hay bất cứ một cái gì mới làm cho chiếc giầy đi êm hơn, cứng cáp hơn, thì nhà làm giầy cũng phải trả tiền cho bằng sáng chế. Công ty Nike làm chủ những bằng sáng chế, và họ kiếm lời trên đó.

Với hai thí dụ trên, đôi giầy Nike hoặc điện thoại Apple, chúng ta thấy dây chuyền tiếp liệu và sản xuất hiện nay không đơn giản để chúng ta có thể đo, đếm những con số gọi là khiếm hụt mậu dịch. Khi người Mỹ trả tiền mua đôi giầy Nike hay cái máy iPhone từ bên Tầu, số tiền đó sẽ có bao nhiêu phần được đem trả cho các nước khác, trong đó có nước Mỹ?

Thí dụ, một đôi giầy giá $100 đô la nằm trong số khiếm hụt của Mỹ đối với Trung Quốc. Muốn chính xác, số tiền mà Trung Quốc trả cho Đài Loan để mua bộ phận về ráp đôi giầy sang Mỹ, thí dụ $30 đô la, phải trừ bớt trong số khiếm hụt đó. Đáng lẽ, $30 đô la này phải cộng vào số khiếm hụt của Mỹ đối với Đài Loan. Nhưng trên giấy tờ, không ai thấy con số đó, vì hàng không được bán từ Đài Loan qua Mỹ!

Cho nên, trong thế giới bây giờ, làm thống kê người ta phải tính rất kỹ để biết mỗi quốc gia “đóng góp” bao nhiêu “giá trị” vào một sản phẩm, nước nào cuối cùng thu được bao nhiêu. Đại học Groningen đã lập ra một kho dữ liệu gọi là WIOD (World Input Output Database) cung cấp các con số đó, để tính số khiếm hụt hay thâm thủng chính xác nhất.

Thí dụ, năm 2014, Mỹ chỉ nhập cảng $320 tỷ đô la hàng hóa từ nước Tàu, chứ không phải $483 tỷ, như con số chính thức được công bố. Số chênh lệch, $163 tỷ, thực ra đã chuyển qua các quốc gia khác. Vì thế, năm đó trên giấy tờ Mỹ thâm thủng mậu dịch với Trung Quốc 315 tỷ Mỹ kim. Nhưng con số thật, sau khi trừ những món mà Trung Quốc phải trả cho nước khác chỉ còn là $200 tỷ mà thôi.

Nhìn kỹ hơn, chúng ta thấy bức tranh còn phức tạp hơn  nữa, vì rất nhiều thứ hàng gọi là Mỹ nhập cảng từ bên Tàu lại sử dụng những thứ bộ phận đem từ Mỹ qua Tàu để ráp lại. Một công ty như Nike, Walmart mua bao nhiêu thứ, từ bao nhiêu quốc gia trong đó có nước Mỹ, đem tất cả qua Tàu ráp lại. Khi chở các món hàng đó về Mỹ, người ta vẫn coi đó là “Mỹ nhập cảng từ nước Tàu.” Khi chính phủ Mỹ đánh “thuế nhập cảng” trên các hàng hóa đó, họ đánh cả trên cả những bộ phận từng được làm ở Mỹ. Nếu chính phủ Trung Cộng trả đũa, đánh thuế trên các bộ phận “nhập cảng từ Mỹ vào Trung Quốc” thì các bộ phận đó sẽ bị đánh thuế hai lần! Tất nhiên, người tiêu thụ sẽ phải trả hai thứ thuế đó!

Một lợi thế của các công ty Mỹ trên thế giới là món hàng nào của họ cũng chứa đựng những “sản phẩm trí tuệ” do người Mỹ tạo ra, người Mỹ đem bán và thu tiền. Sức mạnh kinh tế của thế giới bây giờ không nằm trong các hàng hóa mà được phô bày trong các dịch vụ. Các dịch vụ bán có giá hơn, thu nhiều hơn, so với các hàng hóa. Năm 1970, loài người chi tiêu 100 đồng thì 50 đồng trả cho các dịch vụ. Năm 2015, người ta chi 80 đồng cho dịch vụ. Một trong những “dịch vụ” mang lại nhiều tiền nhất là bán các phát minh, sáng chế.

Trong số 148 triệu người thuộc lực lượng lao động nước Mỹ, không kể công chức và quân đội, chỉ có hơn 20 triệu làm trong các ngành “sản xuất hàng hóa,” như các thợ mỏ than, công nhân nhà máy thép. Còn 105 triệu người khác, chiếm 84%, làm các dịch vụ, từ các y tá, nhân viên ngân hàng, kế toán, kỹ sư cho tới người hầu bàn.

Vì vậy, nước Mỹ “xuất cảng” nhiều dịch vụ mà người bình thường hay quên. Ngành du lịch năm ngoái thâu hơn $200 tỷ. Ngành giáo dục đại học ở Mỹ thu vào khoảng 50 tỷ Mỹ kim do sinh viên ngoại quốc đem vào Mỹ dùng. Nếu coi đây là một món “dịch vụ” đã được xuất cảng thì có thể so sánh số thu này với các ngành công nghiệp khác: Năm 2017, Mỹ bán xe du lịch được $52 tỷ, bán máy dân dụng được $56 tỷ, các chất bán dẫn xuất cảng thu được $48 tỷ. Chúng ta thường quên rằng giáo dục của Mỹ được “xuất cảng” không thua gì máy bay hay xe du lịch! Con gái ông Tập Cận Bình, cô Tập Minh Trạch (Xi Mingze, 習明澤) là một khách hàng, cô đã tốt nghiệp Đại Học Havard năm 2015.

Trong trận chiến mậu dịch sắp tới, Tổng Thống Donald Trump chắc chắn không nên gây khó khăn cho các sinh viên Trung Hoa lục địa khi họ muốn du học ở Mỹ. Thay vì tăng thuế nhập cảng trên các món hàng mua của Trung Quốc, chính phủ Mỹ nên tìm cách ép chính quyền Bắc Kinh phải tôn trọng các bản quyền của người Mỹ trên những sản phẩm trí tuệ; và thúc đẩy họ mở rộng cửa hơn cho hàng hóa, dịch vụ của Mỹ vào nước Tàu tự do hơn.

Trong tuần này, cuộc xung đột mậu dịch Mỹ-Trung sẽ được khai pháo!

Nếu “chiến tranh” có diễn ra, dù ở mức độ nhỏ và được kiểm soát để khỏi bùng lớn hơn, nước Mỹ có lợi thế hơn Trung Cộng. Hàng hóa và dịch vụ của Mỹ xuất cảng qua Trung Quốc chỉ ảnh hưởng tới dưới một phần trăm (0.7%) Tổng Sản Lượng Nội Địa (GDP) của Mỹ. Trong khi đó, 3.1% GDP của Trung Quốc tùy thuộc vào việc xuất cảng hàng sang Mỹ. Nếu chiến tranh mậu dịch xảy ra và kéo dài, kinh tế Trung Quốc sẽ bị thiệt hại nhiều hơn kinh tế Mỹ. Có lẽ đó là lý do khiến ông Donald Trump yên tâm khi lên tiếng đe dọa “tấn công” vào $30 tỷ hàng hóa mua của Trung Quốc. Nhiều hy vọng là Tập Cận Bình sẽ nhượng bộ. (Ngô Nhân Dụng)

-----------------------------

XEM THÊM

Nguyễn Xuân Nghĩa
2018-03-20

Mậu dịch công bằng

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, Nhóm G-20, gồm 19 nền kinh tế lớn nhất thế giới cùng khối Liên hiệp Âu Châu, vừa có kỳ họp của giới tài chính và ngân hàng tại thủ đô của Argentina để chuẩn bị cho Thượng đỉnh thứ 14 vào Tháng 11 năm nay. Tại Hội nghị cấp cao vừa qua, dư luận quốc tế lưu ý tới câu trả lời của Tổng trưởng Ngân khố Hoa Kỳ cho 19 đại biểu kia về lập trường của Mỹ. Giới lãnh đạo tài chính và ngân hàng của các nước bày tỏ sự quan ngại là Hoa Kỳ đe dọa trật tự thương mại thế giới vì không tôn trọng nguyên tắc hợp tác đa phương mà đơn phương quyết định tăng thuế nhập nội trên thép và nhôm. Tổng trưởng Ngân khố, là Bộ Tài chính của Mỹ, trả lời rằng Hoa Kỳ quyết bảo vệ quyền lợi kinh tế và an ninh của mình và chỉ muốn một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp và công nhân Mỹ. Nói cách khác, phải chăng Hoa Kỳ đang từ bỏ nguyên tắc tự do mậu dịch đã đề cao từ 70 năm nay để lui về chủ trương bảo hộ được gọi là “mậu dịch công bằng”? Ông nghĩ thế nào về chuyện này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ sự thể nó không đơn giản như thế và sau nhiều lần phân tích chuyện mậu dịch hay ngoại thương trên diễn đàn này, ta vẫn trở về bối cảnh sâu xa của vấn đề. Sau hai thế kỷ áp dụng chế độ bảo hộ mậu dịch để công nghiệp hóa, các quốc gia tiên tiến nhất chỉ theo chủ trương tự do mậu dịch từ đầu thế kỷ 20 thôi. Nhưng rồi vụ Tổng khủng hoảng 1929-1933 làm các nước lui về chủ trương bảo hộ khiến cho khủng hoảng kéo dài và còn dẫn tới Thế chiến II (1939-1945). Là quốc gia chiến thắng và ít bị tàn phá nhất, Hoa Kỳ viện trợ cho các đồng minh tái thiết và phát triển theo chủ trương tự do kinh tế, trong đó có tự do mậu dịch, là trao đổi với tối thiểu về thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu. Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Tự Do - Cộng Sản càng thúc đẩy chiều hướng đó và cách nay 70 năm, đầu năm 1948 thì Mỹ còn vận động Hiệp Ước Chung về Thuế Quan và Mậu Dịch gọi tắt là GATT với quy chế “tối huệ quốc” cho các nước. Kể từ năm 1998, quy chế đó được gọi là “mậu dịch bình thường” cách nay cũng 30 năm. Từ đó thiên hạ cứ tưởng rằng đấy là lý tưởng.


Nguyên Lam: Như vậy, từ 30 năm hay thậm chí 70 năm trước, Hoa Kỳ coi như dẫn đầu thế giới về chủ thuyết tự do mậu dịch, thế thì tại sao ngày nay nước Mỹ lại có vẻ đổi ý về lý tưởng đó, thưa ông?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Từ sau Thế chiến II, các nước đều theo nhau ký kết hiệp ước song phương, giữa hai nước với nhau, hoặc đa phương, là giữa nhiều quốc gia, với niềm tin là việc giao dịch tự do sẽ đem lại thịnh vượng cho mọi người. Thực tế thì sự thịnh vượng đó lại không được phân bố đồng đều vì nhiều lý do:
- 1/ Muốn giao dịch thì phải làm ra sản phẩm có nước muốn mua nhưng nếu xứ khác lại có sản phẩm đó mà rẻ và tốt hơn thì ta khó cạnh tranh và tiếp tục nghèo. 2/ Nhiều nước vẫn kín đáo bảo vệ một số khu vực của mình vì yêu cầu kinh tế, xã hội hay chính trị và gây ra tình trạng cạnh tranh bất chính làm xứ khác bị thiệt. 3/ Các nước nghèo có nhân công rẻ cũng chiếm lợi thế cạnh tranh làm khu vực chế biến của các nước giàu suy sụp vì lương cao hơn. 4/ Cơ cấu sản xuất của các nước công nghiệp hóa đều thay đổi, với nhân công giảm trong khu vực chế biến mà khu vực dịch vụ lại phát triển mạnh và đóng góp nhiều hơn trong luồng giao dịch. Nhưng nạn sa sút nhân dụng trong ngành chế biến như một kết quả của năng suất cao vẫn là một bài toán xã hội và chính trị. Do đó, lý tưởng tự do mậu dịch vẫn bị thực tế của đời sống trong từng nước thách thức. Là xứ dân chủ tiên tiến nhất, Hoa Kỳ sớm thấy ra sự bất toàn của lý tưởng và muốn đặt lại vấn đề.

Bảo hộ mậu dịch vẫn tồn tại

Nguyên Lam: Nếu như vậy, thưa ông, phải chăng tự do mậu dịch gây ra thay đổi trong ngắn hạn khiến một số quốc gia e ngại nên vẫn duy trì chế độ bảo hộ, như chúng ta đang thấy tại Việt Nam hay Trung Quốc. Về dài hạn thì các nước cần điều chỉnh tình trạng đó nhưng thật ra sự thịnh vượng vẫn không trải rộng cho mọi thành phần dân chúng và gây phản ứng chính trị trong các nước dân chủ. Ông giải thích thế nào về sự nghịch lý này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tình trạng bảo hộ kín đáo thật ra vẫn còn trong nhiều quốc gia đã hay đang phát triển. Nhưng Hoa Kỳ quan tâm đến việc khác và đang đảo lộn lập trường. Thời Chiến tranh lạnh, vì yêu cầu an ninh, Hoa Kỳ chấp nhận cho các đồng minh Âu Á lợi thế về mậu dịch nhưng lâu lâu cũng có phản ứng bảo hộ chứ không phải là không. Khi Chiến tranh lạnh tàn lụi với sự sụp đổ của Liên Xô, nhu cầu an ninh đó không còn, Hoa Kỳ nhìn lại sự thất thế về kinh tế của mình mà các nước kia thì chưa. Đó là một lẽ. Ngày nay, sự thể còn thay đổi nhiều hơn, vì về an ninh thì từ Âu qua Trung Đông tới Á Châu, các nước đều cần Mỹ bảo vệ, nhưng kinh tế Hoa Kỳ lại bị nhập siêu nặng nên từ tả sang hữu, chính trường Hoa Kỳ dè dặt hơn với lý tưởng tự do mậu dịch như ta thấy từ năm 2015 với phản ứng của Quốc hội Mỹ về Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP. Đó là lẽ thứ hai. Chuyện thứ ba là Chính quyền Trump lại kết hợp yếu tố an ninh vào bài toán giao dịch kinh tế, nôm na là chỉ chia sẻ gánh nặng kinh tế với đối tác nào chia sẻ gánh nặng phòng vệ an ninh với Mỹ, chứ các nước không thể tiếp tục đạt xuất siêu là xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu với Hoa Kỳ mà lại không đóng góp tiền bạc công sức vào việc phòng thủ an ninh. Khi nói về trận chiến mậu dịch của Hoa Kỳ với các nước thì ta đừng nên quên rằng với nước Mỹ ngày nay, an ninh và kinh tế là hai mặt của một đồng tiền!


Nguyên Lam: Thưa ông, phải chăng vì đó mà đầu năm nay, hôm 19 Tháng Giêng, văn phòng Đại sứ Thương mại Hoa Kỳ đệ nạp Quốc hội hai báo cáo đáng chú ý về kinh tế của Trung Quốc và Liên bang Nga. Rằng Hoa Kỳ sai lầm khi cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm 2001 và rằng, sau khi  gia nhập WTO vào năm 2012, Liên bang Nga không tôn trọng cam kết với các thành viên của WTO mà vẫn duy trì chế độ bảo hộ làm doanh nghiệp và công nhân Mỹ bị thiệt vì không hưởng được sự thịnh vượng lý thuyết mà ông vừa nói? Cùng ngày 19 đó, Bộ Quốc Phòng Mỹ còn nêu đích danh hai cường quốc đang cạnh tranh về thế lực an ninh với Mỹ là Trung Quốc và Liên bang Nga. Nguyên Lam xin hỏi rằng với nước Mỹ, an ninh và kinh tế đang nhập một hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa đúng vậy, nhưng hãy nói chuyện gần rồi sẽ đề cập tới chuyện xa. Việt Nam đạt xuất siêu với Mỹ bao nhiêu thì bị nhập siêu với Trung Quốc bấy nhiêu và có thể đang cố thoát khỏi tình trạng lệ thuộc vào Bắc Kinh hoặc bị Trung Quốc ức chế ngoài Đông Hải. Khi ấy, Hoa Kỳ có thể là giải pháp. Vì sao các nước trong Hiệp hội ASEAN đều muốn làm ăn với Trung Quốc mà khi an ninh bị đe dọa thì lại trông cậy vào Hoa Kỳ? Chính quyền Mỹ không ưa trò phân công bất lợi đó nữa mà nói ra sự thật là ưu tiên giải quyết mâu thuẫn với Trung Quốc và Liên bang Nga, đồng thời kêu gọi các nước hợp tác khi xét tới yếu tố an ninh của họ. Đấy là phong thái đàm phán của Chính quyền Trump.
- Nếu chỉ nhìn vào nguy cơ chiến tranh mậu dịch thì ta quên nguy cơ chiến tranh thật: thà cãi nhau về xuất nhập khẩu còn hơn bắn nhau thật. Vả lại nếu chiến tranh mậu dịch bùng nổ thì Hoa Kỳ vẫn giữ thế mạnh vì cần xuất khẩu ít khi các nước đều cần bán hàng cho một thị trường có sức tiêu thụ cao nhất, là điều chúng ta đã nói tới. Có lẽ Bắc Kinh hiểu ra sự thể phũ phàng ấy rõ ràng hơn các quốc gia kia.

Trung Quốc trong tầm ngắm của Hoa Kỳ

Nguyên Lam: Ông vừa nói ra một điều có lẽ bất ngờ cho thính giả của chúng ta. Tại sao ông cho rằng Bắc Kinh hiểu ra lập trường của Hoa Kỳ hơn nhiều xứ kia?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thứ nhất, lãnh đạo Bắc Kinh biết là họ vẫn can thiệp vào quản lý kinh tế chứ không theo quy luật thị trường như đã cam kết. Thứ hai, là đối thủ muốn cạnh tranh và vượt Hoa Kỳ về cả an ninh lẫn kinh tế, họ theo dõi đối sách của Mỹ dưới sự lãnh đạo của Chính quyền Donald Trump. Họ thấy và có lẽ cũng được giới chức kinh tế tài chính Mỹ cho biết rằng từ cả năm nay, Chính quyền Trump đã chuẩn bị gây áp lực rất nặng trên ba bình diện. Thứ nhất, về an ninh thì tận dụng Khoản 232 của Đạo luật Thương mại Mở rộng năm 1962 để áp thuế mà khỏi cần Quốc hội cho phép, đó là chuyện nhôm thép. Thứ hai, về mậu dịch thì viện dẫn Khoản 301 của Đạo luật Thương mại năm 1974 để đòi trả đũa Trung Quốc tội ăn cắp quyền sở hữu trí tuệ và bắt doanh nghiệp Mỹ phải chuyển giao công nghệ và dùng công nghệ lấy được của Mỹ để đánh Mỹ. Thứ ba là sẽ kiểm soát việc đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào thị trường Mỹ theo lối “ăn miếng trả miếng”, tức là doanh nghiệp Mỹ mà đầu tư vào Trung Quốc bị áp chế thế nào thì doanh nghiệp Trung Quốc vào thị trường Mỹ cũng bị kiểm soát theo cùng một chế độ. Sau cùng, gần đây nhất, Chính quyền Trump còn quyết định hạn chế nhập khẩu từ Trung Quốc khoảng 60 tỷ Mỹ kim để thu hẹp số khiếm hụt mậu dịch. Hàng loạt biện pháp dồn dập ấy đều nhắm vào Trung Quốc hơn là các nước bạn hàng khác của Hoa Kỳ.


Nguyên Lam: Khi thấy rõ động thái đó của Chính quyền Hoa Kỳ, lãnh đạo của Bắc Kinh đã làm những gì thưa ông?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đương lúc dầu sôi lửa bỏng, lãnh đạo Trung Quốc gửi Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì, là cựu Bộ trưởng Ngoại giao nay chỉ đạo ngành ngoại giao và hồ sơ Đài Loan, bay qua Mỹ vận động mà không có kết qủa. Rồi một trí thức thân tín của Tập Cận Bình là kinh tế gia Lưu Hạc, người vừa lên làm Phó Thủ tướng cũng qua Mỹ giải tỏa sức ép ngoại thương mà ra về tay không. Sau đó, nhân vật sát cánh với lãnh tụ Tập Cận Bình là Vương Kỳ Sơn không chỉ lên làm Phó Chủ tịch mà còn đảm nhiệm thêm cả hồ sơ kinh tế với Hoa Kỳ. Tức là Bắc Kinh coi Mỹ là ưu tiên. Sau cùng, hôm qua, khi kết thúc hai tuần họp của Quốc hội để hợp thức hóa quyết định của đảng, Tổng lý Quốc vụ viện là Thủ tướng Lý Khắc Cường lại có lời hòa dịu với Mỹ là nên đàm phán để tránh chiến tranh mậu dịch giữa đôi bên. Vì vậy, tôi nghĩ là Chính quyền Trump chỉ dàn cảnh chiến tranh mậu dịch để đàm phán với từng nước trên cơ sở của quyền lợi an ninh hỗ tương, chứ trọng tâm vẫn nhắm vào Trung Quốc vì lý do an ninh lẫn kinh tế do hiểu được văn hóa chính trị của Bắc Kinh là “mềm nắn, rắn buông”. Các nước khác, kể cả Việt Nam, cứ theo đó mà tính toán lợi hại....

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích kỳ này.









No comments:

Post a Comment

View My Stats