08:47:pm 07/05/14
Hai cuộc chiến tranh thế giới, thứ nhất và thứ hai,
gây nhiều tang tóc trong lịch sử loài người nhưng cũng để lại nhiều bài học:
(1) Dù đứng trên quan điểm nào, các nhà chiến lược quân sự đều đồng ý rằng, nếu
chiến tranh là chọn lựa duy nhất để bảo vệ sự sống còn của đất nước, yếu tố
quyết định mà một nhà lãnh đạo phải làm là chủ động chọn thời điểm để phát động
chiến tranh. (2) Chiến tranh xảy ra càng sớm càng có lợi cho các nước nhỏ vì
đối với các nước nhỏ, nhanh hay chậm, trước hay sau cũng không giúp họ nhiều về
kỹ thuật chiến tranh trong khi với các nước lớn một năm là thời gian dài để
tăng cường khả năng quân sự. (3) Không phải chỉ nước lớn mới có quyền chọn lựa
chiến tranh mà một nước nhỏ cũng có thể gây ra chiến tranh và lôi kéo các nước
lớn vì quyền lợi hay vì bảo vệ quyền lợi phải tham dự vào cuộc chơi sinh tử.
Chiến
tranh và quyền lợi quốc gia
Thủ tướng Anh Lord Palmerston thời Nữ Hoàng Victoria
phát biểu: “Nước Anh không có đồng minh bất diệt, kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi
ích quốc gia dân tộc là bất diệt và vĩnh viễn”. Câu nói đó trở thành thước đo
cho chính sách đối ngoại của mọi quốc gia.
Kinh nghiệm thành công của Mỹ khi tham gia thế chiến
thứ nhất: Suốt ba năm đầu của thế chiến thứ nhất, chính sách đối ngoại của Mỹ
vẫn còn bị chế ngự bởi tư tưởng cô lập kéo dài từ thời Tổng thống George
Washington đến Woodrow Wilson.
Tháng Giêng 1917, Ngoại trưởng Đức Arthur Zimmermann
gởi đại sứ Đức tại Mexico Heinrich von Eckhard qua ngã tòa đại sứ Đức tại Mỹ
một bức điện tín, trong đó y chỉ thị Heinrich von Eckhard tiếp xúc chính phủ
Mexico và yêu cầu quốc gia này tấn công Mỹ, và sau chiến tranh, các tiểu bang
vốn thuộc của Mexico trước đây gồm Texas, New Mexico và Arizona sẽ được hoàn
trả lại Mexico kèm theo một khoản tiền viện trợ lớn. Tổng thống Mexico
Venustiano Carranza tức khắc thành lập một ủy ban để nghiên cứu nội dung và khả
năng thu hồi các lãnh thổ bị mất trong chiến tranh Mỹ-Mexico như được hứa trong
điện tín. Bức điện tín bị tình báo Anh đọc được, giải mã và gởi cho chính phủ
Mỹ. Dân chúng Mỹ công phẫn và chính sách đối ngoại của Mỹ thay đổi. Ngày 6
tháng 4, 1917 Mỹ tuyên chiến với Đức.
Kinh nghiệm thất bại của Tiệp, Anh, Pháp khi tránh
né thế chiến thứ hai: Các sử gia đã, đang và sẽ tiếp tục tranh luận về quyết
định của Tổng thống Tiệp Khắc Edvard Benes khi chấp nhận các điều khoản của
hiệp ước Munich dù không được mời tham dự hội nghị. Nếu Tiệp Khắc đánh nhau với
Đức thì Anh, Pháp, Ba Lan, Hungary, Rumani vì quyền lợi và an ninh quốc gia bị
trực tiếp đe dọa cũng phải tham gia chiến đấu bên cạnh Tiệp. Đừng quên, hiệp
ước bí mật giữa Hitler và Stalin chỉ được ký một tuần trước ngày Đức xâm lăng
Ba Lan và trong thời gian hiệp ước Munich gần một năm trước đó, Liên Xô vẫn còn
là đồng minh của Tiệp Khắc.
Trong thời điểm hiệp ước Munich, không tính 900 ngàn
quân và 200 ngàn quân Anh, vào tuần lễ thứ ba của tháng Chín, 1938, Tiệp Khắc
có một quân đội tiên tiến với một triệu quân bao gồm 34 sư đoàn trang bị tối
tân. Tiệp có khoảng 1000 phi cơ chiến đấu đủ loại. Về tăng, Tiệp có nhiều trăm
tăng hạng nặng 38 tấn trang bị đại bác 75 li với hiệu năng chiến đấu vượt xa so
với tăng của Đức. Khi chiếm Tiệp vào tháng Ba 1939, Đức tịch thu 469 tăng hạng
nặng, 1500 phi cơ chiến đấu, 43,500 súng máy và trên một triệu súng trường. Cho
đến đầu năm 1939, Đức mới bắt đầu sản xuất loại tăng Mark IV 23 tấn trang bị 75
mm và đến tháng 9, 1939, các đơn vị tăng của Đức mới chỉ có 300 tăng loại Mark
III và Mark IV. Tiệp Khắc là quốc gia đã chuẩn bị cho chiến tranh. Từ tháng Ba
1938, Thủ tướng Tiệp Milan Hodza tuyên bố Tiệp sẽ đánh trả mọi sự can thiệp
quân sự từ nước ngoài. Năm 1936, 12.5% GNP dành cho quốc phòng so với 13% của
Đức. Ngoài ra, các vùng núi non hiểm trở Bavarian, Saxon và Silesian dọc biên
giới luôn là các phòng tuyến hữu hiệu ngăn chận bước tiến của đoàn quân Hitler.
Sử gia Tiệp Jaroslav Hrbek kết luận “Việc Tiệp Khắc không đánh Đức ngay cả
trong trường hợp đồng minh tây phương không ủng hộ, là một sai lầm”.
Tuy kết quả khác nhau, việc Mỹ tham gia thế chiến
thứ nhất hay Anh, Pháp tránh né thế chiến thứ hai đều bị chi phối bởi quyền lợi
bức thiết của quốc gia họ.
Trung Cộng không dám đơn phương phát động chiến
tranh đánh Việt Nam trước cũng vì bảo vệ quyền lợi và quyền lực
Các lãnh đạo Trung Cộng từ những bài học chiến tranh
thế giới nêu trên và những thất bại máu xương trong lịch sử Trung Quốc của thời
bị tám nước phân thây sẽ không dám đơn phương phát động chiến tranh xâm lược
Việt Nam với một tầm mức quy mô như chúng đã làm vào ngày 17 tháng 2 năm 1979.
Tại
sao?
Những
lý do người viết đã trình bày trong loạt bài về hiểm họa Trung Cộng xin tóm tắt
dưới đây:
1. Hoàn cảnh chính trị Đông Nam Á nói riêng và châu
Á nói chung đã khác hẳn so với 35 năm trước. Chiến tranh giữa Trung Cộng và
Việt Nam không còn là chiến tranh giữa hai nước mà là cuộc chiến tranh vùng và
có khả năng cao lôi kéo cả Mỹ và Nhật vào. Kỹ thuật quân sự của Trung Cộng đã
tiến khá xa so với thời kỳ chiến tranh với Việt Nam 1979 nhưng còn quá yếu so
với Mỹ. Trung Quốc là một đất nước có lịch sử phân hóa và nội phản từ trong
xương tủy. Là một nước lớn nhưng Trung Quốc thường không đủ khả năng bảo vệ
chính mình. Đừng nói chi thời cuối đời nhà Thanh bị 8 nước Mỹ và Âu Châu cấu xé
mà ngay thời nhà Tống vàng son của Trung Quốc cuối cùng rơi vào tay Mông Cổ,
một nước rất nhỏ trên thảo nguyên phía Bắc. Và một lần nữa vào thế kỷ 17, khi
nhà Minh, một triều đại rất mạnh về quân sự nhưng cũng không tránh bị tiêu diệt
trong bàn tay của Mãn Thanh nhỏ bé.
2. Các điều kiện kinh tế toàn cầu ngày nay đã làm
cho các cường quốc phụ thuộc vào nhau nhiều hơn so với 35 năm trước. Nếu có
xung đột quân sự, các quốc gia dân chủ dù thắng hay bại vẫn có cơ hội phục hồi
nhưng Trung Cộng sẽ tiêu vong. Hơn ai hết, giới lãnh đạo Trung Cộng biết chế độ
CS như người đi trên dây, ngồi trên lưỡi dao cạo. Sự ổn định tại Trung Cộng
hiện nay chỉ là sự ổn định tạm thời vì cơ chế chính trị được xây dựng trên một
nền tảng bất ổn. Trong suốt 45 năm từ khi chương trình hiện đại hóa của Đặng
Tiểu Bình ra đời, các thế hệ lãnh đạo Trung Cộng tập trung vào việc phát triển
kinh tế để vừa thỏa mãn nhu cầu vật chất của người dân và vừa hợp thức hóa vai
trò lãnh đạo của đảng Cộng Sản. Tuy nhiên, hàng hóa của Trung Cộng xuất cảng
phần lớn là hàng hóa tiêu dùng và đây cũng là những loại sản phẩm mà quốc gia
nào cũng có thể sản xuất được. Ngoài ra, các vấn đề môi sinh, ô nhiễm, khan
hiếm năng lượng đang là những mối đe dọa trầm trọng và ảnh hưởng lớn đến cán
cân thương mại cũng như phương tiện nuôi dưỡng cho bộ máy chiến tranh ở tầm mức
thế giới hay khu vực.
3. Trung Cộng một đất nước hơn một tỉ dân, với hàng
trăm chủng tộc, sắc dân, giọng nói, các khu tự trị. Nhiều vùng tự trị chỉ chờ
cơ hội để đòi độc lập. Quân đội dù có đông đảo và tàn bạo bao nhiêu cũng không
thể ngăn chận hơn một tỉ người cùng có một phản ứng tiêu cực giống nhau. Các
cuộc biểu tình ở Tân Cương cho thấy không nhất thiết phải có một tổ chức quy mô
nhưng chỉ cần một tin ngắn được phát ra đúng lúc và đúng chỗ cũng có thể tạo
nên một biến cố lớn và khi đó, bom nguyên tử, hỏa tiễn, chiến hạm đều trở thành
vô dụng. Với sự phân cách về địa lý và dị biệt về chủng tộc, sẽ không có một
hình thức cách mạng nhung, cách mạng da cam, da vàng nào dành cho Trung Cộng mà
chỉ là cách mạng máu. Cách giải quyết dùng xe tăng, đại pháo bắng thẳng vào
những thanh niên tay trắng tại Thiên An Môn của Đặng Tiểu Bình đối với phần lớn
nhân loại là dã man nhưng lại phù hợp với truyền thống Trung Quốc. Biến cố
Thiên An Môn đã qua hơn 25 năm nhưng vẫn là mối ám ảnh thường xuyên trong giấc
ngủ của các lãnh đạo CSTQ bởi vì đảng chỉ dập tắt ngọn lửa trên quảng trường
Thiên An Môn nhưng không dập tắt được ngọn lửa chống đối trong lòng người luôn
âm ỉ.
4. Trung Cộng đang bị bao vây. Hầu hết các quốc gia
dân chủ trong vùng từ Ấn Độ đến Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Thái Lan, tuy mức
độ khác nhau nhưng đều là các quốc gia đang có những mâu thuẫn căn bản với
Trung Cộng, không những về quyền lợi kinh tế mà cả chế độ chính trị. Vì lý do
kinh tế, họ có thể hòa hoãn hay ngay cả thân thiện với Trung Cộng nhưng khi
chiến tranh bùng nổ, không một quốc gia nào sẽ chọn đứng về phía Trung Cộng.
Tuy phụ thuộc nhau vào nhau về mặt kinh tế không có nghĩa là các chính quyền Mỹ
không xem Trung Cộng là đối thủ nguy hiểm trong tương lai gần và không có nghĩa
Mỹ ngồi yên để nhìn bàn tay tham vọng của Trung Cộng vươn xa toàn thế giới. Từ
thập niên 1990 đến nay, Trung Cộng luôn chống đối mọi sự liên minh theo dạng
“khối quân sự” ám chỉ sự liên kết giữa Mỹ và các nước Đông Á cũng như sự có mặt
của quân đội Mỹ tại Nhật Bản, Nam Hàn và mới đây tại Trung Á. Để đối phó lại
các liên minh quân sự khối, Trung Cộng cố gắng phát triển mối quan hệ đa phương
với Nga và các quốc gia nhỏ khác vùng Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan,
Tajikistan, Uzbekistan qua Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), tuy nhiên các liên
minh này chưa phải là đối trọng của các khối thân Mỹ.
5. Chính sách của Trung Cộng đối với CSVN là vừa lấn
chiếm, vừa đe dọa nhưng cũng vừa bảo vệ cơ chế CS. Mặc dù không công khai tuyên
bố, giới lãnh đạo CSTQ cũng biết hiện nay chỉ còn năm quốc gia theo một loại
chủ nghĩa mà giáo sư sử học Roderick Macfarquhar, thuộc đại học Harvard, gọi là
chủ nghĩa Lê Nin không có Mác, tức một nhà nước chuyên chính sắt máu nhưng
không còn dựa trên nền tảng triết lý duy vật. Hai cơ chế chính trị CSTQ và CSVN
có một mối quan hệ hữu cơ mật thiết với các yếu tố tương quan và phụ thuộc vào
nhau. Sự lệ thuộc về chính trị của Việt Nam vào Trung Cộng không chỉ giúp để
giữ an toàn phòng tuyến phía nam mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường
hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Giới lãnh đạo CSVN không có
vị trí độc lập về chính sách đối ngoại. Mọi chủ trương, chính sách trước khi
đưa ra đều phải đo lường phản ứng từ phía Trung Cộng.
Chính
sách đối ngoại kiểu chuột đồng của Trung Cộng hiện nay
Trung Cộng theo đuổi chính sách đối ngoại như cách
loài chuột đồng tàn phá mùa màng. Chúng tàn phá cả cánh đồng Việt Nam bằng cách
gặm nhấm từng bụi lúa. Như đã và đang áp dụng ngay từ khi chiến tranh Việt Nam
chưa chấm dứt qua các sự kiện dời cột mốc biên giới, Trung Cộng không đánh
chiếm mà chỉ từ từ gặm nhắm dần mòn lãnh thổ và lành hải Việt Nam. Một mặt
chúng lớn tiếng với quốc tế là luôn theo đuổi chính sách “hòa bình” và “ổn
định” nhưng mặt khác lấn chiếm từng thước đất, từng bãi san hô, từng hòn đảo
nhỏ trên biển Đông, đặt những giàn khoan trong thềm lục địa Việt Nam. Những
hành vi ăn cắp vặt này không đủ va chạm quyền lợi nặng đến mức các cường quốc
phải đặt vấn đề và các biến cố do chúng gây ra không đủ tác hại an ninh khu vực
đến mức quốc tế phải quan tâm.
Trung Cộng làm vậy, một phần vì chúng đi guốc trong
bụng các lãnh đạo CSVN. Ngoài các tuyên ngôn, tuyên cáo mang nội dung giống hệt
từ sau chiến tranh biên giới đến nay, lãnh đạo CSVN không có một hành động nào
cụ thể để bảo vệ lãnh thổ Việt Nam. Những lời phản đối rỗng của Lê Hải Bình
không gây một tác hại gì và mũi khoan của HD-981 vẫn tiếp tục ghim sâu vào lòng
biển Việt Nam. Các thế hệ lãnh đạo CSVN che giấu sự phụ thuộc, sự sợ hãi chiến
tranh với Trung Cộng, tham vọng quyền lực và quyền lợi trong khẩu hiệu “hòa
bình và ổn định” mà quên một điều Trung Cộng ngại chiến tranh hơn bất cứ một
quốc gia nào trong vùng.
Đại đa số nhân loại không muốn chiến tranh, nhất là
Việt Nam một dân tộc đã chịu đựng quá nhiều đau thương mất mát vì chiến tranh
lại càng không muốn chiến tranh. Thế nhưng, nếu chiến tranh phải đến lần nữa
trên đất nước Việt Nam hãy đến càng sớm càng tốt, hãy đến khi Trung Cộng còn
yếu, hãy đến khi quyền lợi các cường quốc bị va chạm và buộc phải tham gia can
thiệp. Trung Cộng không có gì đáng sợ mà chỉ sợ lòng yêu nước trong mỗi người
Việt Nam chưa đủ độ sục sôi.
No comments:
Post a Comment