Hà Tường
Cát/Người Việt (Tổng Hợp)
Tuesday, May 27, 2014
6:52:34 PM
Trong
cuộc phỏng vấn của các hãng tin ngoại quốc tuần trước, Thủ Tướng Nguyễn Tấn
Dũng xác nhận rằng Việt Nam bằng chủ trương hòa bình, đang cân nhắc các phương
án bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý theo luật pháp quốc
tế, qua 3 tuần lễ Trung Quốc đã không có thiên chí giải quyết vấn đề
giàn khoan HD 981.
Dân Việt Nam đã trải qua nhiều năm nội chiến, chiến tranh ở Cambodia, ở biên giới phía Bắc, bây giờ Việt Nam không thể để xảy ra chiến tranh, nhất là một cuộc chiến tranh không chắc thắng. Vả lại kinh nghiệm từ lịch sử cho thấy, chiến tranh dẫu kết thúc ra sao cũng không giải quyết được tận cùng mâu thuẫn. Như vậy sau một thời gian dài do dự, gần như chắc chắn Việt Nam sẽ phải tiến hành giải pháp kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế không có cách gì khác.
Dân Việt Nam đã trải qua nhiều năm nội chiến, chiến tranh ở Cambodia, ở biên giới phía Bắc, bây giờ Việt Nam không thể để xảy ra chiến tranh, nhất là một cuộc chiến tranh không chắc thắng. Vả lại kinh nghiệm từ lịch sử cho thấy, chiến tranh dẫu kết thúc ra sao cũng không giải quyết được tận cùng mâu thuẫn. Như vậy sau một thời gian dài do dự, gần như chắc chắn Việt Nam sẽ phải tiến hành giải pháp kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế không có cách gì khác.
Tại sao lại do dự? Việt Nam có những lý lẽ trong
thái độ này.
Thứ nhất, một số người tin rằng, vì là hai nước cộng
sản anh em và Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc nên phải tránh tranh chấp. Thực tế,
Trung Quốc – Nga và Trung Quốc – Việt Nam đã nhiều lần xung đột, kể cả xung đột
võ trang, những lời lẽ hữu nghị chỉ là viển vông như lời ông Thủ Tướng Dũng đã
nói mới đây. Nhưng trong mối quan hệ nhiều mặt nhất là kinh tế, sẽ là tế
nhị và bất lợi cho cả hai bên nếu mối quan hệ không êm ả. Trong bối cảnh
toàn cầu hiện nay, Việt Nam không muốn phải đóng cánh cửa với một nước láng
giềng và cường quốc kinh tế lớn trên thế giới. Do đó việc tố tụng chỉ nên làm
khi không còn con đường nào khác.
Thứ hai, trên thế giới, kiện cáo thường không mang
lại một kết quả cụ thể gì, nhất là giữa một nước nhỏ với một nước lớn. Sự phân
xử quốc tế có thể không được đồng ý chấp nhận bằng nhiều cách, hoặc không được
tuân hành. Vả lại đây là một tiến trình phức tạp và rất lâu dài chứ không phải
là cách giải quyết đơn giản như người ta mường tượng.
Hơn nữa trường hợp vi phạm hay xâm phạm này cùng lắm
là một sự lấn chiếm, chưa tới mức độ được coi là xâm lăng của một quốc gia này
vào quốc gia khác, điều mà có lẽ Trung Quốc không hề định làm, cho nên rất khó
để ai can thiệp hoặc dàn xếp.
Tuy vậy, kiện Trung Quốc cũng có những kết quả tâm
lý, chính trị và ngoại giao mà rõ ràng nhất là quốc tế hóa cuộc tranh chấp để
Trung Quốc không dễ dàng tiến thêm nữa, nói một cách đơn giản, trên nguyên tắc
kiện là biện pháp ngăn chặn.
Ngược lại có một số ý kiến cho rằng lẽ ra ở thế yếu
và bị Trung Quốc ức chế nhiều lần trên Biển Đông, lẽ ra Việt Nam đã phải
kiện từ lâu. Ngay khi có mầm mống bất công đe dọa đã phải khởi kiện Trung Quốc,
chứ không phải đây là một lựa chọn tình thế, đợi đến lúc chuyện bất công đã xảy
ra rồi.
Tóm lại dù đả có và sẽ mãi mãi còn tranh cãi, Việt
Nam kiện Trung Quốc là chuyện đã đến lúc phải làm. Việt Nam không còn có thể
chấp nhận hình thức thỏa hiệp song phương vì ở vị trí một nước mạnh, Trung Quốc
sẽ ép Việt Nam phải thi hành những điều đã ký kết nhưng chính họ thì không tuân
hành.
Nhưng kiện ở đâu và kiện thế nào? Đây là quyết định
không dễ, phải các chuyên gia am hiểu mới có thể đưa ra những chọn lựa
thích đáng.
Trên nguyên tắc 166 quốc gia ký Công Ước về luật
Biển (UNCLOS) năm 1982 đều chịu phán quyết của của Tòa Án Biển Quốc Tế nhưng
khi ký kết mỗi nước đề có quyền tuyên bố giữ lại quyền hạn cho mình (bảo lưu),
không chấp nhận thẩm quyền phân xử tong lãnh vực nào, Trung Quốc đã có tuyên bố
hợp lệ loại trừ quyền tài phán đối với tất cả tranh chấp về chủ quyền liên quan
đến đảo. Như vậy không thể kiện tại Tóa Án Quốc Tế The Hague, Hòa Lan,
Gần nhất, Việt Nam có thể học kinh nghiệm của
Philppines.
Tòa Án Quốc Tế về Luật Biển, ITLOS (International
Tribunal for the Law of the Sea) ở Hamburg, Đức, đòi hỏi hai bên
phải thỏa thuận cùng đưa vụ việc ra tòa và cam kết thi hành án thì tòa mới xét
xử. Trung Quốc không bao giờ cam kết như thế và vì vậy Philippines phải đưa ra
trước Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế về việc Trung Quốc giải thích và áp dụng sai
UNCLOS.
Nhưng điểm rắc rối là thời gian để các bên đệ trình
bản lý đoán lên Tòa Trọng Tài, rồi tòa nghe trình bày lập luận, xem xét hồ sơ
và đưa ra phán quyết phải mất từ 2 tới 3 năm. Sau đó nếu Trung Quốc không thi
hành bản án của tòa này thí Philippines phải nhờ Hội Đồng Bảo An LHQ can thiệp,
và Trung Quốc là hội viên có quyền phủ quyết ở Hội Đồng Bảo An, có nghĩa là bản
án không còn hiệu lực giá trị nữa nếu Trung Quốc muốn.
Cũng còn một tòa án thứ tư mà Việt Nam có thể trông
đợi, đó là Tòa Trọng Tài cho những tranh chấp đặc biệt.
Nghiên cứu để tìm ra những cách khiếu kiện sao cho
không lọt vào quyền khước từ của Trung Quốc và có thể phần nào có kết quả
giá trị chính là khả năng của các chuyên viên luật pháp Việt Nam với sự tham
khảo ý kiến của các chuyên gia nước ngoài.
Nôi dung khởi kiện không chỉ nhằm mục đích kết tội
Trung Quốc, Việt Nam có thể yêu cầu tòa xác định hành vi của giàn khoan và các
tàu bảo vệ. Tin mới nhất cho biết giàn khoan di chuyển khỏi vị trí đầu tiên
hàng chục hải lý và như vậy là sự di chuyển bất hợp pháp trong vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam. Cũng có thể xin tòa xác định việc tàu Trung Quốc tấn công
bằng vòi rồng, đâm đụng tàu Việt Nam, gây thương tích cho nhân viên kiểm
ngư,... Trong các vụ kiện như vậy, Trung Quốc không phải là bị đơn và có thể từ
chối hầu tòa nhưng tòa có thể mời họ với tính cách nhân chứng và như thế họ
không thể từ chối sự tham gia.
Ngoài ra Việt Nam cũng có những cách kiện khác,
không phải tòa quốc tế nhưng ít nhất có ảnh hưởng quốc tế.
Chẳng hạn ngư dân Việt Nam có thể kiên iại tòa Việt Nam.vì bị tước đoạt mưu kế sinh nhai (đánh cá) ở vùng Hoàng Sa trên Biển Đông và đòi CNOOC bồi thường tổn thất nhân mạng và tài sản. Trên nguyên tắc Việt Nam có thể tịch thu và bán tài sản của CNOOC ở Việt Nam để trả thiệt hại và đền bù cho nguyên đơn.
Chẳng hạn ngư dân Việt Nam có thể kiên iại tòa Việt Nam.vì bị tước đoạt mưu kế sinh nhai (đánh cá) ở vùng Hoàng Sa trên Biển Đông và đòi CNOOC bồi thường tổn thất nhân mạng và tài sản. Trên nguyên tắc Việt Nam có thể tịch thu và bán tài sản của CNOOC ở Việt Nam để trả thiệt hại và đền bù cho nguyên đơn.
Tất cả các hình thức tố tụng và cách tố tụng như
trên không chắc có thể đuổi gian khoan khỏi vùng biển Việt Nam, hoặc buộc Trung
Quốc phải thi hành bản án. Nhưng kết quả tối thiểu, nếu Việt Nam thắng,
sẽ là buộc Trung Quốc đi vào một cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương và
không thể có lý do sử dụng vũ lực trong khi tòa án còn đang phân xử.
Cuối cùng khi hai nước trong vùng Biển Đông,
Philippines và Việt Nam, cùng lúc kiện, thì Trung Quốc không còn có thể tự do
nói và hành động một cách tùy tiện theo ý họ được nữa. (HC)
No comments:
Post a Comment