Saturday, 31 May 2014

NỖI KHỔ VÌ CÓ MỘT CHA GIÀ (Xích Tử - Dân Luận)




Xích Tử
Tác giả gửi đến Dân Luận
Thứ Bảy, 31/05/2014

Từ hôm mở đầu cho sự kiện giàn khoan Haiyang Shiyou HD 981 của Trung Quốc “hạ đặt” trái phép tại lô 143 trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, tôi càng ngẫm ra và nhận thức sâu sắc, buồn vô hạn về cái điều đã nghĩ, đã nói ở một số entries đăng đâu đó rằng mọi sự bắt đầu, có nguyên nhân từ vị cha già dân tộc và cái tổ chức chính trị cũng như toàn bộ hoạt động “cách mạng” của cái tổ chức chính trị do vị cha già đó đóng vai chính lập nên diễn ra trên đất nước này.

“Cha già dân tộc” là cụm từ dùng để tự mệnh danh của cha già, qua một cuốn sách do chính cha già viết (hoặc nhờ ai đó viết) nhưng dùng một tên giả đứng làm tác giả, xuất bản lần đầu năm 1948, thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang là phòng ngự, chưa chuyển sang tổng tiến công; nơi xuất bản là Trung Quốc (ơn trời; ngay thời ấy mà một nhà in Trung Quốc nào đã có bộ chữ Việt và những người thợ sắp chữ Việt tốt nghề và tốt bụng đến thế).

Thời điểm tự mệnh danh ấy vị cha già chưa già, và có thể gọi là còn rất trẻ, về tuổi đời, về trình độ, và về sự cống hiến cho sự nghiệp của dân tộc, của đất nước. So với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và những bậc tiên liệt khác hy sinh cho mệnh nước, là những vị học hành thấu đáo, kiến văn uyên thâm, tuế niên ngất ngưỡng, cha già tự mệnh danh chẳng là cái gì. Song các vị ấy có tự gọi mình hoặc được ai gọi bằng cụm từ xấc xược, vô đạo vô luân vậy đâu.

Hành vi thiếu đạo đức, không phù hợp với truyền thống dân tộc đó chỉ có ở một người chưa học hết bậc Thành chung, hoàn cảnh gia đình có nhiều khuyết nhược, sớm thoát ly giáo dục gia đình, lang thang qua trời tây trước hết tìm kế sinh nhai và thay đổi số phận trong khuôn khổ chế độ thuộc địa bằng việc xin học Trường thuộc địa. Việc không thành nên nương nhờ các cụ tiền bối để học (lỏm) hành, làm báo, làm cách mạng. Thời cơ đến với việc gia nhập Quốc tế III sau khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và dân tộc thuộc địa” (7/1920) của Lenin, hoát nhiên đại ngộ nên “Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”..; từ đó mà nghiệm ra rằng ”An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”

Luận cương, tự nó không phải là cẩm nang, là cuốn sách chỉ cách thức tiến hành công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa khỏi chế độ thực dân, mà là sự tổng hợp những nguyên tắc marxist do Lenin phát triển về vấn đề dân tộc và các dân tộc thuộc địa; là sự chỉ dẫn/ve vãn đến một thế lực ủng hộ, về mặt chính trị, về huấn luyện cán bộ, về hỗ trợ kinh tài và cả phương tiện bạo lực cho cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa tư bản . Thế lực đó chính là “giai cấp công nhân”, cách mạng vô sản, là nước Nga - Liên Xô sau cách mạng tháng Mười, là Quốc tế III. Để nhận được sự ủng hộ đó, các dân tộc thuộc địa phải đứng hẳn về/ là một bộ phận chịu lệ thuộc, chịu sự chỉ đạo và chỉ huy của Quốc tế III và các cường quốc đang tiến hành đấu tranh/cách mạng theo đường lối ấy.

Từ đó, dưới sự dẫn dắt của cha già, chính đảng cộng sản do cha già lập ra đã tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng, đưa dân tộc từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, trước hết là mục tiêu giải phóng dân tộc trong cuộc hôn phối ép duyên với chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giai cấp, cách mạng và chuyên chính vô sản, cho dù trong nước chẳng có giai cấp vô sản nào cả. Cuộc hôn phối đó có cờ giương trống mở hẳn hoi, có đến cả hai ngọn cờ. Nhờ cơn gió độc nhưng lại lợi cho cách mạng là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai nên cách mạng tháng Tám “thành công” và cả dân tộc vất vả vác hai ngọn cờ đó đi suốt lịch sử đến nay. Cha già phấn khoái vì thắng lợi nên viết sách nói trên; từ trên đỉnh cao của thói kiêu ngạo thiếu văn hóa cộng sản, cha già dám gọi cả Trần Hưng Đạo Vương là bác nữa.

Thế nhưng có vinh quang gì. Toàn bộ các thắng lợi này đến thắng lợi khác là do, nhờ và bị lệ thuộc vào Liên Xô, Trung Quốc. Cái oái ăm nhất và hiểm độc nhất của sự lệ thuộc này so với chế độ thuộc địa, với sự lệ thuộc kinh tế, liên minh quân sự trong hệ thống “tư bản chủ nghĩa” là sự gắn kết về lý tưởng chính trị tiến lên chủ nghĩa xã hội, thế giới đại đồng với thiết chế chính trị độc đảng toàn trị. Theo đó, thiết chế này biến phần còn lại của thế giới ngoài đảng ra, kể cả dân tộc mình, nhân dân mình thành kẻ thù; sự tồn tại, an ninh của đảng, của chế độ (chứ không phải tổ quốc, dân tộc, nhân dân) phụ thuộc vào các nước/đảng đàn anh trong khối; những đàn anh này được xem như là không phải kẻ thù mặc dù thực chất vẫn là kẻ thù của nhau. Đây là hình thái của chủ nghĩa đế quốc, thực dân kiểu mới, tinh vi hơn nhiều so với trước đó. Nó không lộ mặt với những tham vọng, những lực lượng vật chất được chuyển từ nước đế quốc, thực dân sang nước thuộc địa với sự bảo vệ của súng đạn để áp bức, khai thác tài nguyên, bóc lột lao động bản xứ, mà là thực dân, đế quốc bằng chủ thuyết, tư tưởng, bằng gây thanh thế, ảnh hưởng chính trị kèm theo cái củ cà rốt giúp đỡ, viện trợ kinh tế, đỡ đầu và quyết định cho sự tồn tại của nhóm chóp bu nắm quyền tại các nước thuộc địa mới. Việc các nước nhỏ đi báo cáo, xin ý kiến trước mỗi nhiệm kỳ đại hội đảng hoaặc như kiểu tập đoàn lãnh đạo nhiều thế hệ của cộng sản Việt Nam sang Trung Quốc để phó hội Thành Đô một cách lén lút không đếm xỉa gì hàng mấy vạn bộ đội hy sinh trong chiến tranh Việt Trung 1979 - 1985 là những chứng minh cho sự lệ thuộc có tính đế quốc thực dân – thuộc địa này.

Đối với những nước thuộc địa mới như Việt Nam, đây là thời kỳ mất độc lập, tự chủ và chủ quyền tệ hại và nguy hiểm nhất trong lịch sử. Bởi như đã nói trên, tình trạng đó không lộ mặt; nhân dân không biết, không được biết và không có quyền chống lại tình trạng đó.

Trong khuôn khổ phạm trù thuộc địa mới, về đối ngoại, các nước thuộc địa đóng cửa với thế giới tự do, dân chủ được gọi là chủ nghĩa tư bản, chỉ được thực hiện các chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao trong khối xã hội chủ nghĩa là chính, theo chỉ dẫn của các đàn anh. Mọi mở rộng ra khỏi khối phải được sự đồng ý của những ông anh này. Vi phạm nguyên tắc đó, như kiểu Tito của Nam Tư lập tức sẽ bị trừng phạt.

Đối nội, các nước thuộc địa xã hội chủ nghĩa thiết lập một chế độ toàn trị duy nhất một đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện, quản lý tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội, từ tư tưởng tinh thần đến kinh tế, từ hệ thống nhà nước đến các tổ chức xã hội dân sự, báo chí truyền thông, họ tộc, gia đình; kiểm soát và quản lý cá nhân đến mức cá biệt hóa tuyệt đối về sự tồn tại riêng tư bằng lý lịch và hộ khẩu nhưng lại đồng phục hoá sự hình thành nhân cách, cá tính, phong cách. Bằng nguyên tắc dân chủ tập trung và lãnh đạo tập thể, chế độ đã triệt tiêu mọi sự năng động sáng tạo và trách nhiệm cá nhân của hệ thống chính trị, hoạt động khoa học, sáng tạo nghệ thuật...Tình trạng đó làm cho đất nước suy kiệt nhân tài, không có sự xuất chúng, không có lãnh tụ, không có chính khách theo đúng nghĩa. Sự hạn chế và bị làm méo mó khái niệm và các quyền tự do dân chủ, việc không thừa nhận hoặc xuyên tạc khái niệm và các quyền con người để chỉ thực hiện cái gọi là các chuẩn mực, giá trị xã hội chủ nghĩa đã phá hủy dân khí, nô dịch dân trí, phá hủy toàn bộ nền văn hóa cổ truyền truyền thống, đặc biệt là đạo đức, lòng nhân ái, sự trắc ẩn để tạo nên một nền văn hóa lắp ghép, vừa lai căng, vừa suy đồi, kiêu ngạo, vô sỉ, vô cảm và không kiểm soát được. Từ và cùng với quá trình đó, nền kinh tế với mong muốn xóa bỏ sở hữu tư nhân, xóa bỏ gia đình, dòng họ, hương hoả, tôn giáo; thực hiện sản xuất tập thể, thiết lập hệ thống quốc doanh vô tội vạ, quản lý tập trung theo kế hoạch hóa... đã không làm nên được cái gì gọi là chủ nghĩa xã hội, lại làm suy kiệt tài nguyên quốc gia và hủy hoại môi trường. Tấm gương công xã nhân dân, luyện thép ở từng thôn, giết chim sẻ cả nước của Trung Quốc không phải không có ở Việt Nam.

Sự thất bại toàn diện đó làm cho tính chất lệ thuộc của các nước thuộc địa xã hội chủ nghĩa vào các nước đế quốc thực dân xã hội chủ nghĩa ngày càng nặng nề, nghiêm trọng; ngày càng lẩn quẩn. Đây lại chính là điều mong muốn, là dụng ý trong thiết kế chính sách đế quốc của các nước lớn trong khối. Cộng thêm vào đó những cú đi đêm để chia xẻ lợi ích của các cường quốc “tư bản chủ nghĩa” với các nước đàn anh xã hội chủ nghĩa, tình trạng của các nước thuộc địa xã hội chủ nghĩa ngày càng khốn cùng.

Điểm lại, lịch sử của sự lệ thuộc, tình trạng thuộc địa từ học thuyết, mô hình thiết kế chế độ chính trị đến sự mất chủ quyền một cách thực sự của Việt Nam bắt đầu từ sự hoát nhiên đại ngộ Lenin, gia nhập Quốc tế III của cha già. Tiếp đó là việc thành lập đảng cộng sản do Liên Xô và Quốc tế cộng sản chỉ đạo, cung cấp tài chính hoạt động. Rồi các thời kỳ “cách mạng” trước 1945 với sự hỗ trợ của cả lực lượng trên cùng với Đảng cộng sản Trung Quốc, tiến đến giành chính quyền 1945 và công cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp trong sự giúp đỡ, kiểm soát, theo dõi của khối xã hội chủ nghĩa với việc nước VNDCCH được Trung Quốc và Liên Xô công nhận, để tạm kết thúc bằng việc bị ép ký hiệp định Genève trong thế bị lệ thuộc hoàn toàn. Thời kỳ tiếp sau đó chỉ là hậu quả của thời kỳ trước : tiếp tục bị lệ thuộc khi chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, gia nhập “hệ thống xã hội chủ nghĩa” vì không thể nào khác và vì để có điều kiện thôn tính miền nam.

Do vậy mới có công hàm 14/9/1958 của Phạm Văn Đồng. Sau tuyên bố 4/9/1958, công khai thì không ai buộc, cũng không cần phải có thủ tục ngoại giao khẩn cấp như vậy thì tại sao phải có cái công hàm ấy. Trong tuyên bố 4/9, Trung Quốc đã khẳng định chủ quyền với cả Hoàng Sa và Trường Sa; công hàm có loại trừ vùng lãnh thổ đó không, khi những ngày này, Việt Nam vin vào việc đó là vùng chủ quyền của VNCN trong khi tại thời điểm 1958, họ có thừa nhận thực thể có chủ quyền với tư cách quốc gia của VNCH đâu cùng với tuyên bố đã ghi trong Hiệp định Genève về một nước Việt Nam thống nhất, có nghĩa Hoàng Sa và Trường Sa cũng là của VNDCCH.

Từ đó mới có hiệp định Paris sau khi Mỹ và Trung Quốc bắt tay nhau trên đầu nhân dân Việt Nam, trên xác chết và mồ chôn của vô số thanh niên hai miền nam bắc; mới có việc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa 1974 mà VNDCCH không nói một tiếng nào.

Một con gà thuộc địa bị mắc tóc vào chủ nghĩa, vào cái mà ngồi trong phòng vị cha già dân tộc la lớn lên. Mắc tóc nên khi giàn khoan HD – 981 xâm phạm thềm lục địa Việt Nam, trong kết luận hội nghị của trung ương đảng, tổng bí thư đã không dùng một từ Trung Quốc nào, vẫn thể hiện tư tưởng chủ hòa, rồi mãi cho đến nay, ngoài thông tin ngoài luồng nói rằng Tổng bí thư xin qua gặp Tập Cận Bình nhưng không được chấp nhận, Đảng CSVN không có một tuyên bố nào. Chủ tịch quốc hội thì ban đầu nói tình hình “phức tạp khó lường”, sau đó lại “không bất ngờ” (quá khứ không bất ngờ, tương lai thì khó lường, rất biện chứng). Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao tỏ ra yếm thế “giải quyết giàn khoan là rất phức tạp”. Thủ tướng nổ ở nước ngoài quyết tâm bảo vệ chủ quyền, “không đánh đổi chủ quyền bằng thứ hữu nghị viển vông” nhưng khi về nước lại trở cờ "Bảo vệ chủ quyền" nhưng "Vẫn tiếp tục coi trọng quan hệ hữu nghị với Trung Quốc”, rồi “không vì hữu nghị mà không nói sự thật”. Đại sứ Việt Nam ở Mỹ lại có một câu được báo trong nước đăng ngớ ngẩn lạ lùng: "Trung Quốc đang bịa đặt sự thật” (đã bịa đặt lại còn sự thật). Rất nhiều từ sự thật, nhưng đó là sự thật gì ? Công hàm 1958 thì cho đến nay nhân dân không biết mặt mũi ra sao từ nguồn nhà nước công khai, ngoài bản chụp trên mạng mà nghe nói rằng lưu hành trong giới người Hoa – đặc tình của Hoa Nam cục - ở Chợ Lớn trước 1975. Khi Trung Quốc tái khẳng định chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa đã được VNDCCH công nhận bằng sự viện dẫn công hàm đó thì Việt Nam hất trái bóng về phía VNCH, đổi tên công hàm thành công thư, mà không nghĩ kịp rằng nói như vậy là thừa nhận VNDCCH vi phạm hiệp định Genève rồi cả Hiệp định Paris sau đó khi đưa quân miền bắc vào chiếm Dinh Độc lập, bắt Chính phủ VNCH đầu hàng vô điều kiện tại chỗ. Sự thật về cuộc bạo loạn ở Bình Dương mãi mãi nhân dân sẽ không biết được do đâu, do ai tổ chức khi cảnh sát làm ngơ từ phút đầu và với 19.000 “công nhân” xuống đường, sau 2 ngày, đã có thể bắt được ngay hơn 700 người chủ mưu gây rối, rồi trong số ấy nắm ngay được số hôi của để truy tố, xét xử khẩn cấp 01 người với bản án 12 tháng tù giam (trong khi vụ hôi của chỗ xe bia đổ thì sau gần một năm vẫn chưa tìm được mấy thủ phạm). Nhân dân sẽ không biết sự thật nào khi nhà nước nói sẽ kiện Trung Quốc, rồi lại không kiện và chờ thời điểm, dù "Hồ sơ kiện Trung Quốc đã chuẩn bị từ lâu", và đến bản tin trên ngày 30/5/2014, VTV1 dẫn lời Thứ trưởng Ngoại giao khẳng định Việt Nam chỉ áp dụng các biện pháp hoà bình.

Nhưng nhân dân biết được cái sự thật về tình trạng đất nước là thuộc địa của một kẻ thù đế quốc bốn tốt và mười sáu chữ vàng; đất nước đã bị mất chủ quyền bằng công hàm hẳn hoi, đất nước được để bị xâm lược bằng sự giải thích rằng kẻ xâm lược anh em ấy chiếm cũng chỉ giữ giùm. Hoàng Sa và một phần Trường Sa không đòi lại được có nghĩa là Trung Quốc đang thực hhiện đúng Công ước UNCLOS 1982 ấy chứ, làm sao mà có thể trục xuất riêng HD- 981?

Hết cách rồi, các đồng chí, đồng bào ơi! Nguồn cơn cũng từ vị cha già của chúng ta thôi. Học theo người chúng ta có thể đấu tranh bằng cách “Tôi rất đau buồn không ngờ đảng/nước anh em lại đưa cái giàn khoan ấy đến” như một câu tương tự trong Di chúc – bảo vật quốc gia người để lại.

Xích Tử




No comments:

Post a Comment

View My Stats