Lee Kuan
Yew (2013)
Nguồn: Lee Kuan Yew (2013). “America: Troubled
But Still on Top”, in L.K. Yew, One Man’s View of the World (Singapore:
Straits Times Press), pp. 68-93.
Biên dịch: Nguyễn Việt Vân Anh | Hiệu đính: Lê
Hồng Hiệp
Posted on 27/04/2014 by The Observer
*
HOA
KỲ: Nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số 1
Cân bằng quyền lực đang chuyển
đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó
khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lí là
điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu
vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ,
gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng
về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc,
1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ.
Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt
bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay
nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân
bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi
của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải
điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.
Chính quyền Obama tuyên bố vào
năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một
trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy,
ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như
sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ
về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến
lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua
bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở
Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các
nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu
tiên đã được triển khai tới Darwin, Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường
hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhiều quốc gia Châu Á chào đón
cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một
nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy
trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có
Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia
ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này.
Tuy nhiên, chúng ta còn phải
xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay
không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ
có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam. (Người Philippines đã không khôn
ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về
lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người
Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng
lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương
đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể
cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm?
Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân
bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa
Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể
phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ
quân sự.
Khi cuộc chiến tranh giành
quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc
gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã
từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng
những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có
một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về
sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các
quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan
tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc
ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là
không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng
viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình
Dương có thể diễn ra.
Ví dụ như Việt Nam, là một
trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung
Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa
việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị
trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi
có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người
Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến
là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với
người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng
sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một
cường quốc hoà bình. Họ
chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân
đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam. Họ đưa quân đến bán đảo
Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các
cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ
nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp và tham
chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các nước Đông Nam Á
khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ như một ván cờ domino
dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng
lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng thời
gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền
tảng cho sự phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay
hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực
lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này
làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm
sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm.
Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn
không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.
Trong cục diện đang thay đổi
này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ
máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn
lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ.
Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà
người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình
Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ
cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an
ninh bền chặt với Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các
quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc
muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là
người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía
nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường
mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên kết với phần
còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai
trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị,
như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết
nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi
Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại
người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ.
Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã
trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với
thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng
của Singapore. Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã
truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là
một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất
lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn
ngữ của họ.
Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc
tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để
cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương
với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP
của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống
mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng
ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển
và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người
Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh
bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét
chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương
lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho
đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh cuối cùng
Hoa Kỳ không phải đang trên đà
suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài
và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính
nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường
như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn.
Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa:
cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc
công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy
ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ
thực hiện được điều này một lần nữa.
Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền
kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra
cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng
chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng
và đáng khát khao. Chiếc
iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không
phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với
người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một
sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng
thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những người theo
thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ
rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu
Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính
sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và
một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn.
Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng
nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy
thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc,
Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình
Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về
dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ
không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn.
Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ
có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng
họ không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin vào thành công về dài hạn của Hoa Kỳ?
Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội
thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư
đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành
công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm
hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp
một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ,
một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công
được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu
hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người
Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ
có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng
để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi
lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.
Trung Quốc và những quốc gia
khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù
hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh
nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn
có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau
bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là
nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và
giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy
nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy
ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở
lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học
bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore. Ở Anh, bạn không ở
lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như
Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ
luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa
khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây
là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết
tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh
nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có
thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể
hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố
gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản
là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc,
ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở
thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền
bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên
toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh
và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng.
Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì
không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim
ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.
Một nguồn lực khác mang lại sức
cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả
nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San
Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa
dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người
Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và
là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với
Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc
và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư
tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà
khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là
bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt
như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được.
Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York. Nếu bạn có tiền, bạn
có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã
hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm
mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người
Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây
là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy
nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp
đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng
đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học
Oxford và Đại học Cambridge). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng
đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập niên 1970 cho
đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền
kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép,
hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất
quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được
các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải
cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang
lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra.
Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm
qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong
đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh
nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như
là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn,
các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích
thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm
được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế
tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật,
kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được
vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi
thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.
Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó
ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh
tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó
mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của
nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy
thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả
là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp
đẽ ở New York, bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ
đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ.
Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án
khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.
Điều này có chấp nhận được
không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ.
Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà
bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn
tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên
khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc
tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu
sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.
Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền
văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng
mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội
họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm
thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên
và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi
người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này.
Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ
điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này
của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài
của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những
quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh
viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được
ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động
tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp.
Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một
động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty
của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được
định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.
---------------------------
Posted on 10/04/2014 by The Observer
Posted on 02/03/2014 by The Observer
Posted on 14/01/2014 by The Observer
No comments:
Post a Comment