Tác giả gửi đến Dân Luận
Thứ Bảy, 24/05/2014
Giới
thiệu
Gần đây TS Vũ Quang Việt lặp lại một số đề nghị
trong một bài viết năm 2010 của ông. Bài viết này phản biện một số điểm ông nêu
ra, đặc biệt là ba điểm sau:
- Đáng lẽ vào lúc này các nước ASEAN đã phải giải quyết vấn đề [chủ quyền đối với các đảo Trường Sa] với nhau rồi. Nước có trách nhiệm lớn nhất trong việc này là Việt Nam, nhưng Việt Nam đã không làm gì. Vẫn cho rằng Trường Sa là của mình.
- Việt Nam cũng nên từ bỏ việc đòi chủ quyền các bãi/đá nằm trong EEZ của Phi, Brunei và Mã Lai.
- Việt Nam và các nước nên công nhận chủ quyền của nhau trên các đá hiện đang chiếm giữ.
Trong bài viết này, các đoạn trích là từ ý kiến của
TS Vũ Quang Việt trên Diễn
Đàn.
Phản
biện
Liên quan đến ASEAN là vấn đề chủ quyền Trường Sa mà
hiện nay người Việt, đặc biệt là giới trí thức chưa có quan điểm rõ ràng. Thật
ra, chủ quyền của Việt Nam ở Trường Sa là đến đâu? Nếu không giải quyết được
vấn đề này thì khó có sự đoàn kết giữa các nước có liên quan trong khối ASEAN
như Việt Nam, Phi, Mã, Brunei, Indonesia.
Ý kiến này đúng một phần, nhưng sự thật không hoàn
toàn như thế, và đó là một ý kiến thiếu quân bằng. Sự thật là có thể đoàn kết
qua những giàn xếp tạm thời tế nhị và thực tế hơn là các nước ASEAN phải giải
quyết tranh chấp chủ quyền đối với đảo/đá. Như một thí dụ, Philippines vừa
tuyên bố ủng hộ Việt Nam (đó là một sự đoàn kết), trong khi chưa giải quyết
xong tranh chấp chủ quyền đối với đảo/đá.
ASEAN thiếu đoàn kết là vì rất nhiều lý do, chứ
không phải tranh chấp chủ quyền đối với đảo/đá. Các nước ASEAN khác nhau nhiều
về chính trị, tôn giáo, kinh tế, ngoại giao, lợi ích quốc gia, và đặc biệt là
trong quan hệ với Trung Quốc trong các lãnh vực ngoại giao, thương mại, viện
trợ. Tất cả những điều đó đều gây chia rẽ chứ không chỉ tranh chấp chủ quyền
trên các đảo/đá Trường Sa.
Chúng ta cần nhìn nhận thực tế, thí dụ như sau:
- Trên thực tế, nước ASEAN có nhiều tranh chấp đảo/đá với Việt Nam nhất là Philippines, nhưng trong những năm vừa qua nước này lại đoàn kết với Việt Nam nhất trong tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông. Ngoài sự ủng hộ cho Việt Nam trong sự kiện HD-981, khi Trung Quốc tuyên bố thành phố Tam Sa năm 2012, Philippines đã nêu lên trong phản đối của họ rằng Hoàng Sa không phải là của Trung Quốc mà Việt Nam cũng đòi chủ quyền.
- Trên thực tế, nước ASEAN có nhiều tranh chấp đảo/đá với Việt Nam thứ nhì là Malaysia, nhưng năm 2009 Malaysia đã cùng Việt Nam nộp hồ sơ cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa.
- Ngày 22/5/2014, Thủ tướng Malaysia Najib Razak trả lời báo Nhật (http://www.thestar.com.my/News/Nation/2014/05/22/najib-razak-malaysia-china-japan-territorial-disputes/) về chính sách kém quyết liệt của nước mình với Trung Quốc như sau, “We must look at the big picture and not define relations with China on a single-issue basis but look at the broad spectrum of the relations, and recognize the strategic importance of our bilateral relationship with China … We do not want [the territorial] issue to be an impediment to the growing ties between Malaysia and China.” Theo trả lời này, Malaysia không quyết liệt như Việt Nam và Philippines không phải là vì Việt Nam và Malaysia có tranh chấp đảo, mà là vì tầm quan trọng chiến lược và bề rộng của quan hệ với Trung Quốc đối với Malaysia. Như vậy, giả sử như Việt Nam có nhượng bộ cho Malaysia tất cả các đảo mà họ đòi thì cũng chưa chắc là họ sẽ đoàn kết với chúng ta để chống Trung Quốc, vì họ sẽ còn tính tới “the broad spectrum of the relations [with China]”, “the strategic importance of our bilateral relationship with China”, và “the growing ties between Malaysia and China”.
- Trên thực tế, nước ASEAN chia rẽ nhiều nhất cới các nước khác là Campuchia, trong khi nước này không tranh chấp đảo/đá nào ở Trường Sa.
Bốn thí dụ trên ủng hộ mạnh mẽ quan điểm có nhiều
điều chia rẽ ASEAN, và tranh chấp đảo/đá ở Trường Sa không phải là điều chia rẽ
nhiều nhất.
Đúng là câu hỏi “chủ quyền của Việt Nam ở
Trường Sa là đến đâu?” là rất quan trọng, nhưng trước nhất phải trả lời
câu hỏi đó dựa trên luật quốc tế, không nên trả lời một cách tùy tiện.
Đáng lẽ vào lúc này các nước ASEAN đã phải giải
quyết vấn đề với nhau rồi. Nước có trách nhiệm lớn nhất trong việc này là Việt
Nam, nhưng Việt Nam đã không làm gì. Vẫn cho rằng Trường Sa là của mình.
Quan điểm này không chính xác ở hai điểm.
Thứ
nhất, các nước ASEAN không thể nào giải quyết vấn đề
tranh chấp đảo/đá với nhau trong khi bỏ qua Trung Quốc và Đài Loan. Nếu các
nước này cùng nhau đàm phán chia đảo/đá, bỏ qua Trung Quốc và Đài Loan, thì sẽ
hoàn toàn vô nghĩa. Trung Quốc và Đài Loan sẽ không chấp nhận, thế giới sẽ
không ủng hộ, và nếu ra tòa thì tòa cũng sẽ không chấp nhận.
Thứ
nhì, vì lý do trên, việc đổ thừa trách nhiệm lớn nhất
cho việc chưa gải quyết tranh chấp đảo/đá cho Việt Nam là không chính xác.
Ngoài ra, Philippines cũng cho rằng đại đa số các đảo/đá Trường Sa là của họ
(chỉ trừ đảo Trường Sa lớn, Đá Lát và một số mỏm đá phụ cận).
Chính vì thế mới tạo thời gian và cơ sở cho Trung
Quốc hành động bất ngờ, đem dàn khoan vào EEZ của Việt Nam và ở gần ngay Hoàng
Sa như thế.
Ý kiến này cũng không chính xác ở hai điểm. Để biện
luận cho hành động sai trái của họ, Trung Quốc đã đưa ra “cơ sở” Hoàng
Sa là của họ, và đó là vùng nước (không được định nghĩa) thuộc Hoàng Sa. Cơ sở
đó không liên quan gì đến Trường Sa.
Ý kiến "chính vì thế" có vẻ hơi
quá. Có nhiều yếu tố trong tính toán của Trung Quốc, không chỉ việc Việt Nam,
Philippines, Malaysia và Brunei chưa giải quyết xong tranh chấp chủ quyền
đảo/đá với nhau.
Trung Quốc hành động lúc mà Mỹ không có khả năng có
hành động trả đũa (và cũng không có cớ để hành động dù muốn) và lúc mà các nước
ASEAN chia rẽ, kể cả 4 nước đòi chủ quyền ở Trường Sa. Trung Quốc muốn tạo sự
đã rồi. Nó hành động đúng vào lúc mà toà án quốc tế chưa xử vụ kiện của Phi. Nó
hành động đúng vào chỗ chỉ có tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc, ở chỗ mà
Việt Nam chưa dám đưa ra toà để kiện.
Như đã trình bày trên, ASEAN chia rẽ vì nhiều lý do
chứ không chỉ vì tranh chấp chủ quyền đảo/đá tại Trường Sa. Do đó, để đối phó
với sự chia rẽ đó, cần có nhiều biện pháp nhằm xử lý các lý do khác nhau. Việc
tập trung quá đáng vào giải quyết tranh chấp đảo/đá là không thực tế (vì nếu
giải quyết tranh chấp đảo/đá với nhau bỏ qua Trung Quốc và Đài Loan thì thế
giới không công nhận) và không hiệu nghiệm (vì có nhiều chia rẽ khác lớn hơn).
Việc Việt Nam cần làm là giải quyết với các nước
Đông Nam Á khác cũng đòi chủ quyền như Phi, Mã Lai, Brunei.
Nếu thực hiện được thì cũng tốt, nhưng việc đó không
khả thi (như đã trình bày), ít hiệu nghiệm, và không phải là thiết yếu. Eg,
Philippines và Malaysia đã từng hợp tác với và ủng hộ Việt Nam trong khi chưa
giải quyết xong vấn đề chủ quyền đối với đảo/đá.
Điều này chỉ có thể làm được nếu như Việt Nam từ bỏ
ý đồ cho rằng toàn bộ các đảo/đá/bãi ở Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt
Nam. Có nhiều lý do để thấy đòi hỏi này của Việt Nam là có vấn đề
a) lịch sử không chứng minh được Trường Sa là thuộc
Việt Nam; Pháp tuyên bố chủ quyền trên cơ sở đây là vùng đất vô chủ (và chỉ ghi
được 6 địa danh trong hàng vài chục địa danh);
b) có muốn hết cũng không có sức thực hiện được việc
hành xử chủ quyền;
c) càng muốn thì càng chứng tỏ rằng mình là tiểu bá.
Việc Pháp tuyên bố chủ quyền trên cơ sở Trường Sa là
đất vô chủ không có nghĩa “lịch sử không chứng minh được Trường Sa là thuộc
Việt Nam”. Đó là một mệnh đề lỏng lẻo, thiếu cẩn thận, gây ấn tượng sai và
bất lợi cho Việt Nam. “Lịch sử” là lịch sử nào? Thời thượng cổ, hay
trung cổ, hay cận đại, hay hiện đại, hay tất cả lịch sử từ xưa đến nay. “Lịch
sử”, với định nghĩa nó là những gì đã xảy ra trong quá khứ, bao gồm cả việc
tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa, không nước nào phản đối, Pháp sáp nhập
Trường Sa vào với Nam Kỳ, và sau đó công nhận rằng Nam Kỳ là của Việt Nam: đó
cũng là một chứng minh từ lịch sử rằng Trường Sa là của Việt Nam.
Thật ra tuyên bố chủ quyền của Pháp không chỉ là với
6 đảo được nêu tên, mà là với quần đảo Trường Sa trong đó có 6 đảo được nêu
tên. Như vậy không thể dựa trên “chỉ ghi được 6 địa danh” để suy diễn
gì, mà phải xét xem vào thời kỳ đó “quần đảo Trường Sa” được cho là bao
gồm những gì, và theo Pháp thì “quần đảo Trường Sa” được cho là bao gồm những
gì. Từ đó mới có thể suy ra tuyên bố chủ quyền của Pháp bao gồm những gì.
Và vấn đề quan trọng ở đây là khi bắt đầu đàm phán
hay ra tòa mình phải nói là của mình. Không có gì sai với cách tiếp cận đó,
miễn mình công nhận là có tranh chấp, mình không dùng bạo lực, không khăng
khăng từ chối ra tòa, không khăng khăng bác bỏ đàm phán. Điều đúng đắn không
phải là tự bỏ quan điểm của mình từ đầu, mà là
1. Không dùng vũ lực.
2. Chấp nhận và kêu gọi việc ra tòa. Khi ra tòa thì mình phải nói là của
mình, nhưng nếu tòa kết luận rằng mình có zero, 1, 2, 3, ..., hay tất cả các
đảo/đá thì mìn cũng đều tuân thủ.
3. Chấp nhận và kêu gọi đàm phán về chủ quyền đảo/đá. Khi bắt đầu đàm phán
thì mình phải nói là của mình, nhưng khi đàm phán thì mình phải tôn trọng lý lẽ
công bằng, và sẵn sàng nhượng bộ, có khi vì sự công bằng, có khi vì một sự trao
đổi nào đó có lợi ích cho đất nước.
Nếu tiếp cận với ba nguyên tắc trên thì không có gì
là tiểu bá; đó là một cách tiếp cận vừa phải, văn minh mà nhiều nước trên thế
giới áp dụng trong tranh chấp lãnh thổ. Ngược lại, nếu chưa ra tòa, chưa vào
đàm phám mà đã công nhận “lịch sử không chứng minh được Trường Sa là thuộc
Việt Nam; Pháp tuyên bố chủ quyền trên cơ sở đây là vùng đất vô chủ (và chỉ ghi
được 6 địa danh trong hàng vài chục địa danh)” thì là tự bắn vào chân mình,
trong khi thực tế và các tiêu chuẩn của sự ôn hòa, hòa bình, văn minh không đòi
hỏi phải tự bắn như thế.
Ngoài ra nếu mình tự nhận “lịch sử không chứng
minh được Trường Sa là thuộc Việt Nam; Pháp tuyên bố chủ quyền trên cơ sở đây
là vùng đất vô chủ (và chỉ ghi được 6 địa danh trong hàng vài chục địa danh)”
trước thì Trung Quốc sẽ là nước hưởng lợi nhất. Trung Quốc sẽ nói vậy thì trước
nhất Việt Nam không được tranh chấp đảo/đá x, y, z, vv, với Trung Quốc.
Cho nên tôi xin nêu lại vài đề nghị mà tôi đã trình
bày trong một bài viết trước đây của tôi cũng như đã viết cho bộ ngoại giao, để
nếu như không tạo được sự đoàn kết của cả ASEAN thì ít nhất có 4 nước lãnh
xướng (để có hậu thuẫn của ít nhất Indonesia và Singapore):
1. Mọi nước trong nhóm nước 4 nước thuộc khối ASEAN
có tranh chấp ở Trường Sa đồng ý là các kết cấu tự nhiên ở đây chỉ là đá chứ
không phải đảo. Như vậy ai làm chủ các hòn đá thì chỉ có lãnh hải 12 hải lý.
Điều này sẽ là cơ sở cho việc Hoàng Sa chỉ có lãnh hải 12 hải lý (dù ai chiếm
giữ).
Đề nghị (1) cũng hợp lý và cũng tốt, và nhiều tác
giả cũng đã đề nghị như thế trước bài viết năm 2010 của TS Vũ Quang Việt.
2. Việt Nam cũng nên từ bỏ việc đòi chủ quyền các
bãi/đá nằm trong EEZ của Phi, Brunei và Mã Lai.
Đây là một đề nghị hoàn toàn sai lầm. Với đề nghị
(1), “các kết cấu tự nhiên ở đây chỉ là đá chứ không phải đảo”, nếu thêm
đề nghị (2) thì có thể thấy trên bản đồ rằng Việt Nam sẽ chỉ còn một phần nhỏ
của các đảo/đá/đá Trường Sa.
Đề nghị đó cũng không phù hợp với luật quốc tế. Theo
luật quốc tế thì chủ quyền đối với đảo/đá và đá trên mức thủy triều cao lệ
thuộc vào lịch sử xác lập chủ quyền, không lệ thuộc vào đảo/đá đó nằm trong EEZ
của nước nào.
Đề nghị đó cũng không cần thiết. Giả sử như đề nghị
(1) được công nhận thì hệ quả của nó là Việt Nam sẽ không đòi những gì cách
đảo/đá (trên mức thủy triều cao) hơn 12 hải lý. Điều đó có nghĩa tất cả các bãi
ngầm, bãi cạn, bãi và rạn đá lúc nổi lúc chìm, đáy biển, cột nước trong EEZ của
Philippines, Malaysia và Brunei cách đảo/đá (trên mức thủy triều cao) hơn 12
hải lý sẽ thuộc về các nước này. Như vậy là khá nhiều rồi. Giả sử như có đàm
phán (và đàm phán về chủ quyền đối với các đảo/đá sẽ phải bao gồm Trung Quốc),
cũng có thể họ sẽ chấp nhận như thế, cũng có thể họ sẽ đòi thêm một số đảo/đá
nữa, và họ sẽ được gì, ta sẽ được gì, sẽ là kết quả của đàm phán. Không việc gì
phải đương nhiên “từ bỏ việc đòi chủ quyền các bãi/đá nằm trong EEZ của Phi,
Brunei và Mã Lai”.
Như vậy, sẽ là sai lầm nếu ta chưa đàm phán mà đã
tặng thêm họ đề nghị (2). Đề nghị (1) là đủ để bắt đầu đàm phán rồi. Trong đàm
phán, các nước kia có thể đòi nhiều hơn, nhưng chưa đàm phán mà đã tặng họ đề
nghị (2) thì là không cần thiết và dại dột.
3. Việt Nam và các nước nên công nhận chủ quyền của
nhau trên các đá hiện đang chiếm giữ.
Đề nghị này mâu thuẫn với đề nghị (2), vì có những
đơn vị Việt Nam đang giữ nằm trong EEZ của Philippines và Malaysia.
Và nó cũng không cần thiết. Hiện nay Việt Nam,
Philippines, Malaysia và Brunei chỉ cần biện pháp tạm thời là công nhận sự
chiếm giữ de facto của nhau và cam kết không dùng vũ lực để giành đảo/đá của
nhau là được rồi. Hiện nay chưa cần công nhận chủ quyền pháp lý của nhau trên
những đảo/đá đang chiếm giữ.
4. Với sự đồng ý ở trên, 4-5 nước ASEAN có thể yêu
cầu Toà hoà giải Luật biển phán quyết là các cấu trúc thiên nhiên ở Biển ĐNA
lớn nhất chỉ có thể là đá. (Trung Quốc không có quyền cản vụ này).
TS Vũ Quang Việt có thể cho biết tại sao cần điểm
(2) (“Việt Nam cũng nên từ bỏ việc đòi chủ quyền các bãi/đá nằm trong EEZ của
Phi, Brunei và Mã Lai.”) và (3) (“Việt Nam và các nước nên công nhận chủ quyền
của nhau trên các đá hiện đang chiếm giữ.”) thì mới có thể “yêu cầu Toà hoà
giải Luật biển phán quyết là các cấu trúc thiên nhiên ở Biển ĐNA lớn nhất chỉ
có thể là đá”?
Điều đó không chính xác. Rõ ràng là chỉ cần đồng ý
về điểm (1) để có thể ra tòa. Điểm (2), (3) hoàn toàn không cần thiết cho việc
ra tòa. Ngoài ra, chúng lại còn không phù hợp với luật quốc tế, và chắn là tòa
sẽ bác bỏ bất cứ gì dựa trên hai điểm đó. Không những thế, điểm (2) là rất bất
lợi cho Việt Nam, điểm (3) thì mâu thuẫn với điểm (2).
Trên thực tế, đơn kiện của Philippines dựa nhiều
trên quan điểm Trường Sa không có vùng đặc quyền kinh tế, và họ không cần tới
đề nghị (2) và (3) của TS Vũ Quang Việt.
Như vậy, có thể giữ điểm (1), nhưng điểm (2) và (3)
thì trong giai đoạn này chỉ nên gác chúng sang một bên, Việc từ bỏ đòi chủ
quyền đối với đảo/đá, nếu có, mà chỉ có thể là do phán quyết của tòa, hoặc là
do kết quả của đàm phán, không nên là tiên đề.
Tôi nghĩ đã đến lúc chính phủ Việt Nam phải chủ động đưa ra sáng kiến
giải quyết vấn đề trong tranh chấp ở nội bộ ASEAN, tạo cái khung cho giải pháp
trong tương lai với Trung Quốc nếu có.
Vũ Quang Việt
Đúng vậy, nhưng những sáng đề nghị (2) và đề nghị
(3) của TS Vũ Quang Việt không phải là sáng kiến thích hợp cho hoàn cảnh hiện
nay.
Kết
luận
Đúng là ASEAN bị chia rẽ, nhưng đó là vì nhiều lý
do, không phải chỉ vì tranh chấp đảo/đá ở Trường Sa. Đề nghị (2) và (3) của TS
Vũ Quang Việt,
2. Việt Nam cũng nên từ bỏ việc đòi chủ quyền các
bãi/đá nằm trong EEZ của Phi, Brunei và Mã Lai.
3. Việt Nam và các nước nên công nhận chủ quyền của
nhau trên các đá hiện đang chiếm giữ.
không phải là cách có giá trị nhất cũng như không
phải là cách cần thiết để giải quyết sự chia rẽ đó, mà cũng không phải là cách
hợp lý hay khả thì để giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với các đảo/đá.
Trong vấn đề chủ quyền đối với đảo/đá, hiện nay Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei chỉ cần công nhận sự chiếm giữ de facto của nhau và cam đoan không dùng vũ lực để giành đảo/đá của nhau. Như vậy là đủ rồi Chưa cần công nhận chủ quyền pháp lý của nhau. Thí dụ, như như vậy là đủ cho Philippines và Việt Nam đoàn kết với nhau, và cho VIệt Nam và Malaysia hợp tác với nhau.
Trong vấn đề chủ quyền đối với đảo/đá, hiện nay Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei chỉ cần công nhận sự chiếm giữ de facto của nhau và cam đoan không dùng vũ lực để giành đảo/đá của nhau. Như vậy là đủ rồi Chưa cần công nhận chủ quyền pháp lý của nhau. Thí dụ, như như vậy là đủ cho Philippines và Việt Nam đoàn kết với nhau, và cho VIệt Nam và Malaysia hợp tác với nhau.
Đúng là Việt Nam và các nước trong tranh chấp cần có
đột phá, nhưng đột phá đó không nên như trong đề nghị (2), (3) của TS Vũ Quang
Việt, mà có thể bao gồm những biện pháp như các thí dụ sau:
- Cùng đồng ý đưa tranh chấp chủ quyền đối với đảo/đá ra tòa, và cùng gây áp lực thách Trung Quốc ra tòa.
- Cùng đồng ý rằng Trường Sa không có EEZ, và cùng yêu cầu tòa công nhận, hoặc cùng đồng ý một phạm vi EEZ nào đó để khoanh vùng vùng tranh chấp và cùng gây áp lực lên Trung Quốc, cùng thách Trung Quốc chấp nhận cho tòa khoanh vùng vùng tranh chấp.
Như vậy sẽ đem lại phần lớn những lợi ích có thể
mong muốn. Để Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei đoàn kết hơn, cần thực
hiện những biện pháp dễ, cần thiết và có nhiều lợi ích nhất trước. Hai đề nghị
(2), (3) TS Vũ Quang Việt không phải là thiết yếu (vì có thể xây dựng đoàn kết
bằng những cách khác), không có nhiều giá trị (vì có những vấn đề khác gây chia
rẽ lớn hơn), không khả thi (vì các nước ASEAN không thể giải quyết vấn đề chủ
quyền đối với đảo với nhau bỏ qua Trung Quốc và Đài Loan), có vẻ chưa chín, và
nên được tạm gác sang một bên trong hoàn cảnh hiện nay.
No comments:
Post a Comment