Hà
Tường Cát/Người Việt (Tổng Hợp)
Friday, May 16, 2014 5:35:37 PM
Khó
có thể dự đoán cuộc đối đầu căng thẳng trên Biển Đông giữa Việt Nam với Trung
Quốc sẽ còn qua những biến chuyển gì khác trước khi đi đến kết thúc. Trung Quốc rút lui? Việt Nam đành chịu? Xung đột? Những quốc gia nào
hay quốc tế đứng ra can thiệp? Đàm phán thương lượng? Kịch bản nào có thể xảy
đến và kịch bản nào không khả thi?
Nhưng căn bản, đây là cuộc đối đầu không tương sức
và không phải hai bên đều có những mục tiêu dự tính. Việt Nam ở thế thụ động,
không có mưu đồ gì và không đủ sức mạnh sẵn sàng cho mọi hành động khi cần. Vì
vậy nói một cách đơn giản, Việt Nam không thể thắng và không có gì để thắng.
Thủ hòa, nghĩa là duy trì được nguyên trạng, hay thua chút ít đổi lấy một vài
lợi ích bù đắp lại cũng phải xem là vừa lòng rồi.
Không một quan sát viên quốc tế nào cho rằng sẽ xảy
ra chiến tranh, cùng lắm có thể là đụng độ quy mô nhỏ xảy ra do bất ngờ nào đó
của tình huống. Việt Nam phải hết sức tránh xung đột vũ trang dù rằng đủ khả
năng để thắng một vài trân đánh nhưng không thể thắng cuộc chiến tranh. Cho đến
bây giờ như dư luận các nước ngoài , trước hết là Hoa Kỳ, đã thấy là
Trung Quốc khiêu khích hung hăng, tuy vậy không phải muốn có xung đột vũ trang
vì việc này sẽ đem lại cho họ nhiều khó khăn phức tạp Dù là xung đột giới hạn
hay chiến tranh quy mô, Trung Quốc đều không chắc có thể thắng. Chiến thuật
đáng ngại nhất của Trung Quốc trong cuộc đối đầu này là sự ì ra đấy, để
mọi chuyện trở thành đã rồi.
Phía Việt Nam, chỗ mạnh nhất là tinh thần dân tộc
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Nhưng lòng dân chỉ là một yếu tố trọng yếu, không phải
lúc nào cũng có thể cụ thể hóa thành kết quả. Hội Nghị Diên Hồng không tạo nên
chiến thắng Bạch Đằng Giang, dân chúng phải có lãnh đạo thì mới có thể chiến
đấu. Dù muốn dù không, ở bất cứ hình thức tranh chấp nào giữa hai nước, chính
quyền hiện hữu có nhiệm vụ và giữ vai trò chính. Như thế ngăn chặn xâm
lăng Trung Quốc và bảo vệ chủ quyền được hay không, bắt buộc phải trông vào sự
vận dụng khôn khéo mọi khả năng của giới cầm quyền Hà Nội.
Một số người có thể hoài nghi về ý chí chống Trung
Quốc của nhà cầm quyền Hà Nội. Đó là sự tin tưởng lạc hướng vào giá trị của cái
gọi là “16 chữ vàng” từng được dùng để ca tụng mối quan hệ hữu nghị giữa hai
đảng Cộng Sản Việt Nam và Trung Quốc. Thật ra nhiều lần trong quá khứ,
người ta đã hiểu rằng những lời ca tụng lẫn nhau giữa hai đảng Cộng Sản
chẳng có ý nghĩa gì hết. Như cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã nói: “Đừng tin
những gì Cộng Sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”.. Trong cuốn “Bên
Thắng Cuộc”, Huy Đức đã viết một đoạn mô tả mối quan hệ giữa hai nước anh
em Việt Nam – Trung Quốc là một loạt những dối trá lừa gạt như thế.
Gần đây nhất năm 2011, khi Tổng Bí Thư CSNV Nguyễn
Phú Trọng đến thăm Trung Quốc, hai bên đã ký thỏa hiệp đồng ý giải quyết các
tranh chấp trên biển và tiến tới hợp tác cùng khai thác dầu khí. Năm ngoái, bản
thông cáo chung giữa hai nước ở Bắc Kinh sau cuộc thăm viếng của Chủ Tịch nước
Trương Tấn Sang cũng lập lại những cam kết cũ.
Hà Nội không tin tưởng những thỏa hiệp, cam kết, nên
chẳng bất ngờ khi giàn khoan HD 981 được lẳng lặng đưa vào vùng biển đặc
quyền kinh tế của Việt Nam hôm đầu tháng. Ngay ngày thứ nhì, 29 tàu cảnh
sát biển và kiểm ngư đã được điều phối đến khu vực để biểu lộ sự không đồng ý
cho giàn khoan hoạt động tại đây, trong khi phía Trung Quốc nữ phát ngôn viên
bộ ngoại giao Hoa Xuân Oánh gọi đó là hành động “quấy rầy”.
BBC dẫn lời nhận định của tiến sĩ Lee Jones, một nhà
nghiên cứu về an ninh Châu Á – Thái Bình Dương: “Không nên coi Trung Quốc và
Việt Nam là hai đồng minh cộng sản. Đây là hai quốc gia độc đoán, độc đảng, tư
bản, và thực sự chẳng có liên quan gì đến chủ nghĩa cộng sản.” Ông nói rằng
theo sự hiểu biết của ông “Hai đảng đã có thỏa thuận miệng, đồng ý không công
khai chỉ trích lẫn nhau và tìm cách kiểm soát các cuộc biểu tình phản đối bên
kia. Giới ưu quyền của hai đảng đang được hưởng lợi từ quan hệ knhtế gần gũi
giưa hai nước. Như vậy hành động đặt giàn khoan khiêu khích này đã làm hỏng
thỏa thuận đó và đảng CSVN không thể duy trì cam kết ấy vì sự vi phạm chủ quyền
biễn đã khuấy động các cuộc biểu tình chống Trung Quốc. Đảng CSVN có thể dung
túng biểu tình như lời tố cáo của bộ ngoại giao Trung Quốc, nhưng có lẽ chính
họ cũng không lượng định được mức độ mạnh mẽ và các hành động vượt tầm kiểm
soát”.
Những cuộc biểu tình bạo loạn rõ ràng rất tai hại cho
Việt Nam vốn từ trước đến giờ được coi là nơi làm ăn an toàn cho các nhà đầu
tư. Nhưng mặt khác nó lại có tác dụng rất đáng kể trong việc đánh động dư luận
thế giới, góp phần thêm vào sách lược vận động ngoại giao chống Trung Quốc.
Không có gì nghi ngờ rằng Việt Nam muốn Biển Đông không phải chỉ là vấn đề giải
quyết riêng giữa hai nước. Từ trước đến nay chưa bao giờ Hà Nội đàm phán song
phương trong những vấn đề Biển Đông vì hiểu rõ thế bất lợi và chắc chắn không
tin Trung Quốc.
Từ khi thoát khỏi sự cô lập sau khi rút quân khỏi
Cambodia, Việt Nam đã tích cực phát triển bang giao với các quốc gia trên thế
giới và đặc biệt cố gắng củng cố vai trò trong khối ASEAN. Vụ khiêu khích hiện
nay của Trung Quốc đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới lên tiếng, bắt
đầu là Hoa Kỳ rồi tới Nhật Bản, Liên Âu, Australia, Ân Độ, Pháp, Nga và cả ông
Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon. Mặc dầu hầu hết đều chỉ là bày tỏ mối
quan tâm về tình hình căng thẳng nguy hiểm, kêu gọi tìm giải pháp qua đối thoại
và thương lượng, tránh tố cáo đích danh Trung Quốc – trừ Hoa Kỳ và một vài nước
khác. Nhưng đó là điều Việt Nam mong muốn có chứ không chờ đợi nhiều hơn.
Cũng như vậy với khối ASEAN. Một nghị quyết của
ASEAN chỉ có thể có với sự đồng thuận của toàn thể 10 nước hội viên, trong đó
nhiều quốc gia có những quan hệ kinh tế đang tốt đẹp với Trung Quốc, Hội nghị
thượng đỉnh lần thứ 24 ở Naypyitaw, Myanmar, chỉ đưa ra những lời kêu gọi có
tính cách tổng quát, nhưng bản thông cáo chung trước đó của hội nghị các bộ
trưởng ngoại giao là lần đầu tiên trong lịch sử ASEAN trực tiếp đề cập đến
tranh chấp Biển Đông.
Việt Nam tất nhiên cũng không thể chờ đợi hay hy
vọng vào sự trực tiếp can thiệp nhiều hơn của một quốc gia nào, chưa nói tới
mức can thiệp bằng quân sự trong trường hợp xảy ra xung đột. Điều ấy không thể
có trong hoàn cảnh thế giới toàn cầu hóa ngày nay, người Việt đã có kinh nghiệm
ấy với Hoa Kỳ từ chiến tranh Việt Nam, cũng như trong cuộc chiến tranh biên
giới Trung Quốc năm 1979 khi Việt Nam có hiệp ước hữu nghị với Liên Xô.
Nhiều quan sát viên không tin rằng dầu khí là mục
tiêu chính trong vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào tìm dầu ở lô 143 thuộc
vùng biển Việt Nam. Trữ lượng dầu khí ở đây chưa biết chắc chắn là bao nhiêu,
công ty dầu khí hải dương CNOOC, chủ quản giàn khoan, đưa ra con số cao
gấp 10 lần con số do bộ năng lượng Hoa Kỳ dự đoán. Cho dù dự trữ có thể
nhiều như vậy nhưng đưa một giàn khoan nước sâu, đào xuống hàng chục ngàn thước
dưới đáy biển chỉ trong 3 tháng như Trung Quốc đã tuyên bố thì có thể chưa tìm
thấy gì đáng kể. Như vậy tại sao họ phải gây chuyện ở một khu vực gây tranh
chấp với kết quả không chắc chắn như vậy?
Vì vậy người ta cho rằng mục tiệu sâu xa của Trung
Quốc là bước đầu tiên khẳng định chủ quyền trong vùng biển mà Trung Quốc gọi là
đường ranh 9 đoạn hay Đường Lưỡi Bò. Lô 143 cách đảo gần nhất của quần đảo
Hoàng Sa 24 hải lý nghĩa là ngoài lãnh hải 12 hải lý. Những đảo nhỏ không có
thềm lục địa nên không thể coi là thuộc vùng đặc quyền kinh tế. Nhưng lô 143
cách bờ biển Việt Nam chỉ có 128 hải lý và thuộc vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam. Vậy tranh chấp tại đây không phải là tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa mà
Trung Quốc đã chiếm giữ.
Bằng cách đưa một giàn khoan khổng lồ có khả năng
khoan dò ở vùng nước sâu trên 1,500 mét, nơi thuộc Việt Nam nhưng Việt Nam và
các công ty dầu khí Tây Phương do quá tốn kém chưa muốn khai thác, một mặt
Trung Quốc lợi dụng đi bước trước, mặt khác xác định sự chiếm hữu không cần
tuân thủ quy định về luật biển. Nếu Trung Quốc kéo dài được thời gian và
tiếp tục khoan dầu trong 3 tháng như thông báo, thì nếu không được dầu thì nơi
đây cũng đã được coi như là vùng biển của họ và từ đó toàn thể Vùng Lưỡi Bò
cũng là thuộc họ.
Đài Tiếng Nói Nước Nga trong một bài phát thanh hôm
8 tháng 5, cho rằng đây là trận đấu giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ. Hành động vảo
lúc Hoa Kỳ đang vướng bận nhiều vấn đề khác trên thế giới chỉ là một sự lợi
dụng thời cơ thuận tiện, cho mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là khống chế toàn
thể Biển Đông. Đài này nhắc lại rằng Hoa Kỳ vẫn xác định là có lợi ích quốc gia
ở Biển Đông bằng sự tự do lưu thông hàng hải, nhưng thật ra điều này hiểu theo
nghĩa là tự do của các chiến hạm chứ không chỉ thương thuyền. Nói cách khác,
Hoa Kỳ muốn giữ quyền bá chủ ở Biển Đông và bây giờ Trung Quốc muốn dần dần lấn
tới. Phát ngôn viên Hoa Xuân Oánh bộ ngoại giao Trung Quốc luôn luôn nói
rằng giàn khoan HD 981 “hoạt động hợp pháp trong lãnh hải của họ” không liên
quan gì tới Việt Nam và càng không liên quan gì tới Hoa Kỳ. Tuyên bố ấy cho
thấy rõ Trung Quốc đang muốn tự xác định vùng biển trong đường ranh giới 9
điểm, 80% Biển Đông, là hải phận của mình trên thực tế, dù rằng điều này vô căn
cứ và quốc tế không công nhận.
Giáo sư Yevgeny Kataev của trường kinh tế cao cấp ở
Moscow nói rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ có cách giải thích khác nhau về Biển Đông,
Hoa Kỳ coi Biển Đông là biển quốc tế còn Trung Quốc tìm cách để Biển Đông trở
thành biển nội địa của họ. Theo ông Biển Đông trong tương lai lâu dài sẽ thành
nguồn xung đột giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Việt Nam có lẽ nhận định như vậy nên không chờ đợi
sự can thiệp của Hoa Kỳ cho riêng mình, vì hiểu rằng Hoa Kỳ cần tranh đấu cho
lợi ích của chính họ. Điều này được xác nhận thêm qua việc các giới chức cao
cấp Hoa Kỳ liên tục lên tiếng phản đối Trung Quốc. Hôm Thứ Năm Phó Tổng Thống
Joe Biden trong cuộc gặp Thượng tướng Phòng Phong Huy, Tổng tham mưu
trưởng Quân đội Trung Quốc, đến thăm tòa Bạch Ốc, bày tỏ sự "quan
ngại nghiêm trọng" về những hành động đơn phương của Bắc Kinh trên Biển
Đông và kêu gọi ngừng những bước đi khiêu khích, gây ảnh hưởng đến hòa bình khu
vực.
Trung Quốc có ngưng hành động khiêu khích hay không
và như thế nào, điều ấy chưa thể dự đoán. Nhưng Việt Nam có thể tin tưởng rằng
tranh chấp với Trung Quốc đang dần dần được quốc tế hóa và không sợ phải
đơn phương đối phó. Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang trong cuộc tiếp xúc với cử
tri Quận 1 TPHCM, nói rằng “nếu cãi nhau không xong thì phải đưa đi kiện”. Đây
là lần đầu tiên Việt Nam chính thức xác nhận sẽ đưa vụ việc ra trước tòa án
quốc tế khi không còn phương cách nào khác..
Nếu cuối cùng Trung Quốc chấp nhận thương thuyết thì
Việt Nam có thể thương lượng ra sao, nhất định phải đòi hỏi điều gì và có thể
nhượng bộ điều gì . Trong cuộc thương lượng, mổi bên có thế mạnh yếu thế nào
lúc đó sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác sau này. (HC)
No comments:
Post a Comment