Vũ Hoàng
& Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2014-04-09
2014-04-09
Báo cáo về tình hình kinh tế Đông Á Thái Bình Dương
do Ngân hàng Thế giới vừa công bố hôm Thứ Hai mùng bảy tại Singapore có một số
lượng định rất đáng chú ý về những trở ngại khiến kinh tế Việt Nam chưa đạt hết
tiềm lực của mình. Những trở ngại ấy là gì, Vũ Hoàng nêu câu hỏi với chuyên gia
kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa trong tiết mục chuyên đề hàng tuần như sau:
Những
bất trắc toàn cầu
Vũ
Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, Ngân
hàng Thế giới vừa công bố một báo cáo định kỳ về tình hình kinh tế của các nước
thuộc khu vực Đông Á Thái Bình Dương, trong đó có phần lượng định về những
thành tựu và nhiều mặt tiêu cực của kinh tế Việt Nam. Chúng tôi xin đề nghị ông
lược duyệt cho tài liệu này và nhấn mạnh đến những khuyến cáo dành cho Việt
Nam. Trước tiên thưa ông nội dung tổng quát của báo cáo đó là gì?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Trước hết là sự lạc quan của Ngân hàng Thế giới về
triển vọng hồi phục của kinh tế toàn cầu, do bốn yếu tố. Đó là lực đẩy của các
nền kinh tế công nghiệp hóa, với bất trắc về chính sách đã giảm, yêu cầu chấn
chỉnh ngân sách bớt khắt khe và sự nhờ sự năng động mới của khu vực tư nhân.
Trong bối cảnh đó, sản lượng kinh tế thế giới từ năm nay qua năm 2016 sẽ tăng
từ 3 đến 3,4%, với đà tăng trưởng cao hơn của khối công nghiệp hoá từ 2,1 lên 2,4%,
và của các nước đang phát triển sẽ tăng từ 5% lên 5,6%. Đó là vài con số về đại
thể.
Trong khối đang phát triển, thì các nước Đông Á Thái
Bình Dương, mà tôi xin được gọi tắt là Thái-Á cho gọn, sẽ có mức tăng trưởng
7,1%, tức là cao nhất trong các nước thuộc loại mới nổi của toàn cầu. Trong
nhóm Thái-Á đang lên, thì ta chú ý nhất tới Trung Quốc và 10 nước của Hiệp hội
ASEAN.
Ngân hàng Thế giới có vẻ lạc quan về khả năng cải
cách sắp tới của Trung Quốc, và dự đoán tốc độ dù có chậm hơn thì cũng ở khoảng
7,5 hay 7,6% trong vài năm tới. Riêng về khối ASEAN có 600 triệu dân thì định
chế này phân biệt bốn nền kinh tế lớn là Indonesia, Philippines, Thái Lan và
Malaysia với các nền kinh tế nhỏ hơn hay yếu hơn. Việt Nam thuộc loại nhỏ yếu
đó và ở trong nhóm quốc gia thuộc tiểu vùng Mekong, cùng Miến Điện, Lào, và Cam
Bốt. Để dành thời lượng cho Việt Nam, tôi xin khỏi nhắc đến phần hai của phúc
trình cập nhật này với ba đề tài khác, trong đó có một tiểu luận nức nở ngợi ca
ý chí và khả năng chuyển hướng của Trung Quốc.
Vũ
Hoàng: Thưa ông, riêng về Việt Nam, thì Ngân hàng Thế
giới là định chế tài chính quốc tế chuyên yểm trợ các nước đang phát triển đã
có những lượng định gì là đáng chú ý?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Cũng lại ngợi khen và cảnh báo. Về đại thể, năm qua
kinh tế Việt Nam có cải thiện so với một hai năm trước, mà vẫn thấp hơn tiềm
lực vì ba lý do là vấn đề cơ cấu trong lĩnh vực quốc doanh và ngân hàng, là
lệch lạc chính sách gây trở ngại cho đầu tư của tư nhân và cho sức cạnh tranh
trong nhiều khu vực then chốt. Năm qua kinh tế xứ này có tăng chút đỉnh, qua
năm nay e rằng vẫn cứ như vậy, ở khoảng 5,4 tới 5,5%, nếu không xử lý các vấn
đề nói trên. Ngoài ra, có lẽ cũng phải nói tới một trở ngại khác cho Việt Nam
là những bất trắc toàn cầu.
Vũ
Hoàng: Như vậy thì Ngân hàng Thế giới cho rằng năm
2013, tình hình kinh tế Việt Nam có khá hơn 2011 và 2012, mà thưa ông khá hơn
như thế nào?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:Trước hết là kinh tế có ổn định hơn với lạm phát
dưới 7% so với trên 9% hay 18% vào năm 2011 và tỷ giá đồng bạc so với đô la vẫn
ở mức cũ chứ khỏi sa sút thêm. Kế đó là xuất khẩu có tăng vào thị trường công
nghiệp hoá nhờ ngành thâm dụng nhân công như áo quần, giày dép, bàn ghế và mới
nhất là nhờ loại sản phẩm có trình độ công nghệ và trị giá đóng góp cao hơn,
như điện thoại di động, phụ tùng điện tử, và cả cơ phận xe hơi. Sức xuất cảng
đó chủ yếu đến từ khu vực đầu tư nước ngoài, tức là Việt Nam làm gia công và
được nước ngoài mở thị trường bán hàng qua đó. Nhờ các yếu tố tích cực này, cán
cán thương mại có cải thiện và cán cân vãng lai đã từ thâm hụt nặng năm 2008
nay đạt được thặng dư. Nhưng báo cáo của Ngân hàng Thế giới cũng nhắc là số
thặng dư ấy sẽ giảm khi nhập khẩu tăng theo đà phục hồi kinh tế.
Cảnh
báo kinh tế Việt Nam
Vũ
Hoàng: Bây giờ, bước qua phần cảnh báo về những trở ngại
khiến kinh tế Việt Nam không thể hiện được tiềm lực của mình, thưa ông, Ngân
hàng Thế giới đã khuyến cáo những gì trong bản báo cáo vừa qua?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Nếu nhìn vào tiềm năng thực tế thì đáng lẽ Việt Nam
phải đứng bên các nền kinh tế lớn của khối ASEAN là Indonesia, Malaysia,
Philippines, hay Thái Lan. Sự thật bẽ bàng là sức tăng trưởng bền vững của Việt
Nam vẫn bị cản trở vì tốc độ cải cách quá chậm. Ngân hàng Thế giới nêu ra năm
nhược điểm sau đây. Thứ nhất, số cầu trong thị trường nội địa vẫn yếu vì khu
vực tư doanh mất niềm tin, một từ khá lịch sự của họ để nói về tình trạng chật
vật của doanh nghiệp tư nhân. Thứ hai là mức nợ quá lớn của hệ thống doanh
nghiệp nhà nước. Thứ ba là phần vốn quá mỏng của ngân hàng. Thứ tư là sự co cụm
của khu vực ngân sách nhà nước. Về mặt cung thì tình hình còn đáng ngại hơn do
khả năng cạnh tranh kém của Việt Nam nếu so với các nền kinh tế có cùng kích
thước và trình độ, cụ thể là các nước ASEAN nói trên.
Muốn giải trừ những yếu kém ấy để có đà tăng trưởng
mạnh hơn trong trung hạn, Ngân hàng Thế giới cho là Việt Nam cần lại chú ý, tôi
nhấn mạnh vào chữ "lại", đến một số cải cách về cơ cấu. Và phải đặt
trọng tâm vào ba lĩnh vực, là tái cấu trúc hay chấn chỉnh các 1) ngân hàng, 2)
doanh nghiệp nhà nước, và 3) tháo gỡ những rào cản cho nguồn đầu tư của tư nhân
ở trong nước.
Vũ
Hoàng: Thưa ông, báo chí ở trong nước có nói đến một vấn đề
được đại diện của Ngân hàng Thế giới nhắc tới là những khoản nợ xấu của hệ
thống ngân hàng như sự tắc nghẽn khiến kinh tế Việt Nam không đạt tiềm năng của
mình.
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Tôi mừng là báo chí có tường thuật khuyến cáo của
giới hữu trách thuộc Ngân hàng Thế giới về những khoản nợ không sinh lời, khó
đòi và sẽ mất. Họ cũng nói về số liệu mơ hồ của núi nợ, nhiều ít thế nào thì
chưa ai rõ, và còn nêu nghi vấn về khả năng giải quyết của Công ty Quản lý Tài
sản VAMC được lập ra năm ngoái. Trong phúc trình, Ngân hàng Thế giới cho là cơ
quan này thiếu phương tiện đắp vốn cho ngân hàng và có tiến độ chấn chỉnh quá chậm.
Họ cảnh báo về các vấn đề phá sản, vỡ nợ và việc bảo vệ chủ nợ như những chướng
ngại cần khai thông để tái cấu trúc khoản nợ của doanh nghiệp.
Trong phạm vi tài chính công quyền đó, ta còn thấy
ra khả năng xoay trở rất hẹp của lãnh đạo kinh tế Việt Nam vì giới hạn của ngân
sách. Thứ nhất, tiêu chí về bội chi ngân sách năm 2013 đã được nâng từ 4,8% lên
tới 5,3% Tổng sản lượng GDP, tức là cao gấp bội so với chỉ tiêu 4,5%. Lý do bội
chi ở đây là thất thu về thuế khóa do việc giảm thuế doanh nghiệp để kích thích
sản xuất. Việc cải tổ tài chính công, trong đó thuế khóa phải tăng và các khoản
công chi phải giảm, là một sự thúc bách khó xử. Nếu kết hợp thêm loại nợ nước
ngoài thì ta mới thấy ra vấn đề về dài.
Vũ
Hoàng: Thưa ông vấn đề về dài ấy là gì?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Từ 20 năm nay, Việt Nam được quốc tế cho vay theo
tinh thần viện trợ, với điều kiện ưu đãi, cụ thể là lãi suất hạ, thời gian ân
hạn là chỉ trả tiền lời chưa phải trả vốn cao hơn, được vay dài hạn hơn. Nhưng
khi lợi tức quốc dân đã tăng thì loại tín dụng có tính chất nâng đỡ ấy phải
giảm, khiến nhà nước và cơ quan được nhà nước bảo lãnh để vay tiền bên ngoài sẽ
càng ít hơn. Khi ấy, nếu cần vay thì phải phát hành trái phiếu trong thị trường
tín dụng nội địa. Khác với tín dụng viện trợ, tín dụng nội địa thường đòi tiền
lãi cao hơn trong hạn kỳ ngắn hơn. Tức là Việt Nam phải rà lại chính sách công
trái, vì việc vay nợ của công quyền từ nay sẽ đắt hơn và khắt khe hơn.
Khi kết hợp hai chuyện là nợ xấu đã vay mà sẽ mất và
các khoản vay mượn của nhà nước sẽ đắt hơn sau này, ta thấy ra một sự éo le.
Trong giai đoạn quá lâu, được vay tiền quá dễ, nhà nước Việt Nam đã chẳng lo xa
mà để doanh nghiệp của mình vay tiền bừa phứa và chất lên một núi nợ sẽ sụp đổ.
Khi phải kiện toàn tài chính, cụ thể là lập ra công ty tung tiền chuộc nợ, thì
ngân sách nhà nước lại bị giới hạn vì thâm hụt quá cao. Trong tương lai, nhà
nước bị bội chi mà đi vay thì sẽ trả tiền lời nhiều hơn và nhu cầu vay mượn đó
cũng khiến tư doanh khó vay hơn, phải trả lãi đắt hơn. Tức là nhà nước làm bậy
mà đầu tư của tư nhân bị thiệt và kinh tế lại gặp chướng ngại.
Vũ
Hoàng: Câu hỏi cuối cho đề tài hấp dẫn này, thưa ông, bản
báo cáo vừa rồi của Ngân hàng Thế giới có lời khuyên gì cho Việt Nam ngay trong
giai đoạn tới hay chăng?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Ngay năm nay, Việt Nam cần thuyết phục thị trường
về quyết tâm sửa sai bằng cách đẩy mạnh việc cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Việc thiết thực là giải tư, tức là bán lại, những tài sản không thuộc khu vực
chủ đạo then chốt của hệ thống kinh tế nhà nước, và cổ phần hoá, tức là tư nhân
hóa, một số lớn các cơ sở quốc doanh. Song song, Việt Nam phải thanh toán núi
nợ xấu của hệ thống ngân hàng dù rằng đấy là việc tốn kém và phức tạp.
Sau khi ca ngợi Việt Nam đã có chút ổn định vĩ mô,
Ngân hàng Thế giới cho rằng những tiến bộ ấy vẫn còn bấp bênh và kinh tế xứ này
còn gặp nhiều rủi ro. Rủi ro lớn nhất là giảm đà cải cách khiến kinh tế tăng
trưởng chậm hơn, và gây thêm gánh nặng cho ngân sách trong trường kỳ.
Vũ
Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.
No comments:
Post a Comment