Nguyễn
Duy Vinh
Tác giả gửi tới Dân Luận
Chủ Nhật, 13/04/2014
Tấm
ảnh chụp các quan chức “bên thắng cuộc” ngồi hàng đầu trong những buổi “sô” mà
người hát là những ca sĩ VN về từ Mỹ, Canada hoặc Âu Châu là một tấm ảnh trớ
trêu chứa đầy thảm cảnh của một quá khứ đầy nước mắt.
*
Lòng tham con người vô đáy. Tính tham ngự trị trong
tâm thức loài người không chừa một ai. Nó lớn hay bé tùy vào những điều kiện và
hoàn cảnh có thể làm cho nó bùng dậy hoặc không tạo cơ hội cho nó phát sinh. Và
chúng ta tham nhiều thứ lắm. Tham tiền và của cải (tài), tham sắc đẹp (ái dục),
tham danh, tham ăn (thực) và thích ngủ nhiều (thụy). Tâm lý học cận đại liệt
tính tham vào loại rối loạn nhân cách (personality disorder) mạnh có khả năng
làm người ta mất khôn và hành động ích kỷ (tức là chỉ biết nghĩ đến mình). Nói
chung lòng tham có mặt không kỳ thị bất cứ ai và nó cũng không phân biệt một
chủng tộc nào.
Những năm sống ở Phi Châu, tôi có đọc, nghiên cứu
[1] và biết khá rõ ràng là đa số những vị lãnh đạo chính quyền, các ông bộ
trưởng các ngành, những nhân viên cao cấp các cơ quan, nhất là các cơ quan
thuộc ngành cảnh sát công an, là những người hay bị vướng lụy nhiều nhất vào
những vụ án tham nhũng lớn của những xứ Phi Châu nghèo nàn. Những tài liệu tôi
đọc được nói nhiều về tình trạng tham nhũng trầm trọng ở các nước thuộc vùng
nói tiếng Pháp như Cameroun, Sénégal, Côte d’Ivoire, République Démocratique du
Congo, République Centre-africaine v.v…
Dần dà tôi cũng đọc, nghiên cứu và biết thêm một
điều nữa là ở những nước cộng sản như Trung Quốc và Việt Nam, nơi mà các nhà
lãnh đạo thường vỗ ngực là đã thực hiện được những cuộc cách mạng giải phóng
giai cấp, cũng không khá hơn. Những đảng viên cao cấp của các bộ ngành, các cơ
quan và doanh nghiệp nhà nước là những người có máu tham không thua gì các ông
lớn của mấy xứ Phi Châu khốn khổ.
Hồi đó tôi cứ nghĩ lòng tham của con người là do sự
nghèo khổ sinh ra. Tôi liên kết sự nghèo khổ ở những nước Phi Châu và con người
sinh ra ở đó.
Sinh ra và lớn lên ở Phi Châu nghèo khổ đói rách nên
khi có quyền và cơ hội trong tay, con người Phi Châu dễ phát sinh lòng tham
thúc đẩy họ vơ vét và chiếm đoạt thật nhiều của cải cho chính họ và cho gia
đình họ. Các quan chức Phi Châu ăn cắp những số tiền khổng lồ [1] của nhà nước.
Các ông lớn Phi Châu tham nhũng sống trong những dinh thự lộng lẫy được bao bọc
chung quanh bởi những khu vườn rộng thênh thang.
Rồi tôi liên kết sự tàn phá của những trận chiến
thảm khốc ở Việt Nam với con người sinh ra ở xứ này. Sinh ra và lớn lên ở Việt
Nam vào những năm có giặc giã triền miên, trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn
nên khi có quyền và có cơ hội trong tay, con người Việt Nam cũng dễ phát sinh
lòng tham thúc đẩy họ, nhất là những quan chức cao cấp ở Việt Nam, nhúng tay
vào những vụ vơ vét tiền bạc của cải, xâm chiếm đất đai nhà cửa không thua gì
các ông lớn Phi Châu.
Gần đây cách suy nghĩ của tôi đã bị lung lay. Dù tôi
vẫn còn tin nghèo khổ là một trong những nguyên nhân quan trọng làm phát sinh
lòng tham con người, những vụ án tham nhũng gần đây ở Canada cho tôi thấy nghèo
khổ không còn là một điều kiện tất yếu nữa vì đã có những người sinh ra và lớn
lên trong nhung lụa, trong sự sung túc vật chất của xứ Canada giàu có, vẫn có
thể là những người có lòng tham vô đáy, không thua gì con người của những xứ
khốn khổ ở Á Châu và Phi Châu.
Trong lúc tôi viết những giòng chữ này, hiện giờ có
bốn thượng nghị sĩ của thượng viện Canada đang bị pháp luật điều tra và sắp bị
đưa ra tòa vì đã gian lận tiền nhà nước. Số tiền gian lận đi từ 40 ngàn đô la
cho đến hơn 300 ngàn đô la. Riêng ở tỉnh bang Québec thì người dân hầu như mỗi
ngày đang được xem những buổi chất vấn trên tivi, trực tiếp truyền hình, giữa
các luật sư công tố viện của Ủy Ban Điều Tra Charbonneau và những nhân viên cao
cấp của các nghiệp đoàn, các công ty tư nhân và các ban quản lý hai thành phố
Montréal và Laval. Những tiết lộ qua cuộc chất vấn lấy khẩu cung này cho thấy
toàn bộ guồng máy hành chánh cấp cao của 2 thành phố Montréal và Laval đã bị
nhiều con sâu tham nhũng ăn ruỗng. Sau những tiết lộ động trời này, ông thị
trưởng Montréal đã phải từ chức còn ông thị trưởng Laval đã bị sở an ninh
Québec điều tra và cáo buộc. Ngoài ra còn có rất nhiều nhân viên cao cấp của
hai tòa đô chính lớn nhất nhì Québec này cũng đang bị điều tra và cáo buộc.
Việc ăn ruỗng guồng máy quản lý nhà cầm quyền hai thành phố này có sự tham dự
của các quan chức lãnh đạo các nghiệp đoàn công nhân (Fond des Travailleurs du
Québec) cũng như sự len lỏi vào tận gốc guồng máy quản lý thành phố bởi những
nhóm xã hội đen Mafia Ý nổi tiếng ở Montréal và nhóm Hell’s Angels. Cả nước
Canada hiện nay tiếp tục theo dõi những tiết lộ nóng hổi qua cuộc thẩm vấn của
Ủy Ban Charbonneau vẫn được trực tiếp truyền hình mỗi ngày.
Trước đó vài năm, đã có vụ án tham nhũng xảy ra dưới
thời ông Jean Chrétien làm thủ tướng với những vụ chuyển tiền bất hợp pháp từ
các hợp đồng tài trợ được ký kết nhờ vào sự quen biết cá nhân hoặc qua sự móc
nối chính trị từ Đảng Tự Do (Liberal Party) cũng là đảng cầm quyền lúc bấy giờ.
Rất nhiều quan chức chính phủ liên bang và doanh nhân ngành quảng cáo đi tù. Vụ
án tham nhũng này đã là một trong những nguyên nhân chính đưa đến sự từ chức
của ông Jean Chrétien năm 2003 và sự thất bại chua cay của Đảng Tự Do sau cuộc
bầu cử chính phủ liên bang năm 2004.
Tôi đưa ra những so sánh vừa kể không ngoài mục đích
thuyết phục độc giả là lòng tham con người có mặt ở xứ nghèo cũng như ở xứ
giàu. Lòng tham đó có mặt và ngự trị ở bất cứ người nào cho dù người đó có một
quá khứ lương thiện và một đời sống vật chất đầy đủ nhất. Khi có cơ hội tốt và
có quyền lực trong tay, lòng tham vô đáy đó vẫn có thể biểu hiện và hoành hành
tác yêu tác quái.
Nói tóm lại lòng tham là một tâm hành (mental
formation) bẩm sinh có mặt từ lúc con người sinh ra. Lòng tham đứng đầu trong
các tâm bất thiện lớn. Con người ta dù có thánh thiện cách mấy, trong những lúc
yếu lòng và gặp hoàn cảnh thuận tiện, vẫn có thể bị lòng tham sai sử và dắt đi
biền biệt trên những con đường tối tăm. Diệt được lòng tham không dễ. Diệt được
hoặc chuyển hóa tính tham đòi hỏi một chương trình giáo dục chú trọng đến việc
giảng dạy các học sinh về cách sống ngay thẳng từ bé. Những người mắc phải bệnh
rối loạn nhân cách loại tự yêu mình (narcissistic personality disorder) cần
phải được điều trị. Sống xa lánh được những cám dỗ trần tục cũng là một cách để
lòng tham không có cơ hội phát sinh. Đây là một đề tài lớn và tôi không đủ thẩm
quyền để bình giải về đề tài này. Và tôi mong mỏi được học hỏi thêm ở những nhà
giáo, những tu sĩ cũng như những nhà tâm lý học.
Riêng
về việc tham tiền tham của thì chúng ta, những người Việt Nam, đã được chứng
kiến hoặc sống qua rất nhiều với những tình huống oan trái trên đất nước yêu
thương của chúng ta sau ngày 30 tháng 04 năm 1975.
Ngày
này là ngày “bên thắng cuộc” từ miền Bắc tràn xuống chiếm đóng miền Nam. Quyển sách của Huy Đức [3] có nói đến cảnh những người bộ đội thu nhặt
chở về quê quán miền Bắc VN rất nhiều hàng hóa do họ mua được hoặc tịch thu.
Rồi đến những chiến dịch lấy nhà lấy đất của những người trong Nam đã bỏ nhà
vượt biên hoặc bị bắt đi những trại cải tạo (có thể gọi là trại tù cải tạo, chữ
này Huy Đức tránh không dùng) hay những vùng kinh tế mới. Chỉ trong vòng vài
năm, bên thắng cuộc trở thành những chủ nhân ông mới. Với quyền lực trong tay
và khi cơ hội tốt đến, lòng tham của họ đã bùng lên, nạn tham nhũng bắt đầu có
mặt khắp nơi trên giải đất Việt Nam, ở khắp các cơ quan, các ngành. Sau khi đè
đầu đè cổ dân miền Nam với những chính sách ác nghiệt như tù cải tạo, đi vùng
kinh tế mới, đổi tiền, đánh tư sản mại bản, v.v…, những người mang tiếng đem
“giải phóng” đến cho miền Nam, những người mang tiếng đem “tự do độc lập hạnh
phúc” đến cho dân Việt Nam ngày nay trở thành giai cấp mới ăn trên ngồi chốc và
họ cũng tham tiền không thua gì những người mà họ muốn “giải phóng”. Họ là
những ông quan trong các bộ ngành, họ là những giám đốc, những bộ trưởng... Họ
là những nhóm lợi ích, những đại gia với những dinh thự hoành tráng hoặc những
tướng tá cao cấp ngành công an. Lương của một bộ trưởng Việt Nam hiện nay
khoảng 10 triệu đồng một tháng, thế mà mỗi căn nhà mấy ông này cất cho gia
đình, cho bố mẹ, và ngay cả cho bồ nhí là những căn hộ đồ sộ đáng giá cả trăm
tỉ đồng Việt Nam. Mấy quan chức lớn này chắc chắn phải có cách khác để làm ra
tiền vì số lương của họ không thế nào đủ để xây những căn nhà đẹp lộng lẫy như
thế.
Riêng cho những ai muốn biết thêm một góc nhìn của
cuộc hành trình phía “bên thua cuộc” sau ngày 30 tháng 04 thì tôi khuyên nên
đọc quyển “Đến Bờ Tự Do – Quà tặng những người tị nạn Việt Nam, Cao Mên và
Lào của người dân thành phố Ottawa” [2]. Một quyển sách trình bày trang nhã
dầy hơn 98 trang bởi tác giả Brian Buckley được xuất bản năm 2008 tả lại
Dự Án 4000, một dự án được đề xuất để cứu trợ 4000 thuyền nhân mà đa số là
người Việt Nam do chính người dân thành phố Ottawa bảo lãnh và tự nguyện đóng
góp về tài chánh. Dự án nhân đạo này, được khởi xướng, xúc tiến, và điều hành
bởi bà Marion Dewar, cựu thị trưởng thành phố Ottawa nay đã qua đời, đã là bước
đầu rất lớn tạo nên một ảnh hưởng đáng kể trên chính sách giúp người tị nạn của
nước Canada. Nước này dưới sự lãnh đạo của cựu Thủ Tướng Joe Clark đã thực hiện
một cuộc cứu trợ vô cùng to tát, nhận vào Canada hơn 60 ngàn thuyền nhân Việt
Nam trong những năm sau ngày 30 tháng 04 năm 1975. Gần 90 % những người này là
những thuyền nhân đã đến được các đảo ở Mã Lai, Nam Dương, và Phi Luật Tân,
v.v…Số còn lại đến từ những trại tị nạn Thái Lan và Hồng Kông hoặc đi chính
thức do thân nhân bảo lãnh.
Những cuộc ra đi hãi hùng của làn sóng thuyền nhân
sau năm 1975 đã được ngòi bút sắc bén của ông Buckley kể lại với thật nhiều chi
tiết đau thương. Những chuyến đi vô cùng khó khăn trên những chiếc thuyền mong
manh. Những cơn bão trên đại dương mênh mông. Những cuộc tấn công tàn bạo của
quân cướp biển Thái Lan. Một cuộc hành trình đầy gian khổ. Thấm thoát thế mà 39
năm đã trôi qua.
Và ngày nay nhìn lại số phận người Việt Nam qua
những trang giấy đầy máu và nước mắt đó của quyển Đến Bờ Tự Do, không ai trong
chúng ta là không bùi ngùi thương xót đến tất cả những người xấu số đã bỏ mình
trong cuộc chiến Bắc Nam tương tàn hoặc đã vùi thây trên bước đường vượt biên
tìm tự do đầy gian truân.
Thế nhưng cũng có những người phía bên
thua cuộc quên đi quá khứ rất nhanh. Gần đây khi đọc những tin tức trên mạng
liên quan đến những ca sĩ Việt Nam nổi tiếng ở hải ngoại về nước trình diễn,
chúng ta có quyền đặt vài câu hỏi hoặc lên tiếng về những sinh hoạt này. Tôi
nghĩ hoặc là con người Việt Nam chúng ta dễ quên quá khứ khổ đau và cũng dễ tha
thứ cho những người đã làm khổ mình, hoặc là các ca sĩ hải ngoại đó về Việt Nam
trình diễn vì những lý do riêng tư, và có thể họ cũng có những lý do rất chính
đáng. Và dù cho những buổi
trình diễn đó có chính đáng đến đâu chăng nữa, tác giả bài này vẫn thấy nó có
tác dụng va chạm và thiếu tôn trọng không ít thì nhiều những người đã khuất sau
cuộc chiến tương tàn, sau những chuyến vượt biên đầy gian nan.
Theo một vài nguồn tin trong nước những số tiền
cachet của những “sô” trình diễn của các ca sĩ VN hải ngoại này khá cao. Số
tiền về Việt Nam hát một lần có thể bằng tiền đi “sô” cả năm ở hải ngoại. Đồng
tiền có thể đã làm chủ động cho những buổi trình diễn này.
Phần đông số người “bên thua cuộc” ra đi tìm được tự
do, họ đã tìm được một món quà vô cùng quý giá, nhưng ngược lại họ phải làm
việc rất vất vả trong khi học hỏi hội nhập vào đời sống mới nơi xứ lạ quê
người. Tôi nghĩ cho một số ca sĩ VN ở hải ngoại mà tôi ngưỡng mộ chắc khó làm
giàu được nếu chỉ sống và hát ở hải ngoại. Tấm ảnh chụp các quan chức “bên thắng cuộc” ngồi hàng đầu
trong những buổi “sô” mà người hát là những ca sĩ VN về từ Mỹ, Canada hoặc Âu
Châu là một tấm ảnh trớ trêu chứa đầy thảm cảnh của một quá khứ đầy nước mắt.
Đúng là đồng tiền chỉ huy mọi thứ. Nào là tiền viện trợ của những nước tân tiến
giúp VN qua hệ thống FDA, nào là tiền Việt kiều gửi về nước giúp người thân
hoặc do chính họ về buôn bán làm việc trong nước. Nào là tiền cướp được của
người dân qua các vụ cưỡng chế nhà cửa đất đai. Rồi đến tiền ăn cắp hay “mượn
tạm” bởi những nhân viên tín dụng ngân hàng. Tiền từ những cách làm giàu bất
lương và thô bỉ. Đúng là tiền rừng bạc bể…
Dĩ nhiên bạn sẽ bảo tôi là chúng ta phải quên đi quá
khứ khổ đau và hướng về một tương lai hạnh phúc và sáng lạn hơn. Bạn sẽ bảo tôi
là chúng ta phải sẵn sàng tha thứ cho nhau và cộng tác với nhau để xây dựng một
nước Việt Nam mới hùng mạnh hơn xưa. Những điều này rất đúng và cũng rất lý
tưởng. Lý tưởng này nghe thì rất hay nhưng không dễ thực hiện. Thực hiện được
lý tưởng này đòi hỏi rất nhiều thiện chí của tất cả người Việt Nam trong cũng
như ngoài nước. Những người lãnh đạo Việt Nam hiện nay phải là những người có
tâm huyết thật sự muốn giải quyết thật lòng viêc hòa hợp hòa giải dân tộc thì
mới mong có “ngày đoàn viên”. Họ phải là những người có lòng vì quê hương dân
tộc và phải biết nghe tiếng nói của người dân. Nếu họ chỉ vì lòng tham,
không muốn mất đi cái ngai vàng mình vừa chiếm được và cứ tiếp tục ôm khư khư
vào một chủ nghĩa cũ rích và lỗi thời Mác Lê, cứ ôm khư khư vào một quá khứ mà
họ cho là vàng son qua những cuộc chiến thắng đẫm máu, đến một lúc nào đó họ sẽ
phải ôm lấy thất vọng chua cay.
Nhìn
tình cảnh nước VN hiện nay, có ai dám vỗ ngực nói là đã hết bất công? Chỉ cần bấm vào những liên kết trên mạng Internet, ai cũng có thể đọc
và nhìn thấy được hoàn cảnh cũng như những hình ảnh của người dân buôn thúng
bán bưng bên cạnh những căn biệt thự lộng lẫy của các quan chức VN. Đồng thời
người chịu khó theo dõi hình ảnh trên mạng mỗi ngày cũng sẽ thấy những cảnh
công an lộng quyền đánh đập giam cầm những người lên tiếng về nhân quyền hay
đàn áp những người bày tỏ lòng yêu nước sau các vụ chiếm đất chiếm đảo bởi
Trung Quốc. Những vụ cướp và giết người kinh hoàng xảy ra nhan nhản mỗi ngày
trong các thành phố lớn ở Việt Nam. Những vụ đại án tham nhũng với những số
tiền tham nhũng lên đến cả nghìn tỉ đồng VN. Trong khi đó, người dân trong nước
đa số vẫn còn phải phấn đấu chật vật để mưu sinh, bên cạnh cuộc sống đế vương
của những đại gia.
Chúng
tôi tự hỏi một xã hội như thế có là một xã hội tốt cho VN và những người nắm
vận mệnh dân tộc có chắc là họ đang đi (định hướng) đúng đường ? Câu trả lời còn tùy vào sự thức tỉnh, sự hiểu biết (dân trí) và lòng
cương trực dũng cảm của mỗi người Việt Nam. Mỗi người Việt Nam dù là đang sống
trong nước (và đang bị kềm kẹp) hay là đang tha phương cầu thực ở hải ngoại (và
được nhiều tự do) phải tự đặt những câu hỏi về tương lai xứ sở Việt Nam. Khi nào những ca sĩ VN nổi tiếng
ở hải ngoại biết dõng dạc từ chối không về hát một cách chính thức ở Việt Nam
trong bối cảnh hiện tại là chúng ta đã bắt đầu có những câu trả lời.
Khi nào nhà cầm quyền Việt Nam biết trả tự do cho tất cả những người đang bị
giam cầm vì họ có tiếng nói bất đồng chính kiến là chúng ta bắt đầu có những
tia hy vọng. Khi nào nhà cầm quyền biết thực thi pháp quyền công minh trừng trị
đúng cách những nhân viên công an lộng quyền là chúng ta bắt đầu thấy những tia
sáng ở cuối đường hầm.
Có người đùa thật cay độc là : bạn ơi ánh sáng mà
bạn thấy ở cuối đường hầm đó chẳng qua là đèn rọi của một chiếc xe lửa tốc hành
khác đang đổ ập về phía bạn đó thôi, bạn đừng tưởng bở.
Thế là không còn gì để nói nữa. Chỉ có Trời kíu
(cứu) (chép thơ Nguyễn Bính).
Nguyễn
Duy Vinh (Douala, Cameroun)
[2] Gift of Freedom – How Ottawa welcomed the Vietnamese, Cambodian, and Laotian refugees, Brian Buckley, General Store Publishing House, Canada, 2008
[3] Quyển Bên Thắng Cuộc của Huy Đức
No comments:
Post a Comment