Văn Hóa
Nghệ An
Thứ bảy, 27 Tháng 10 2012 16:00
VHNA: Tiến sĩ Quốc
gia Đại học Paris, nguyên Giám đốc nghiên cứu thuộc Trung tâm Quốc gia
Nghiên cứu khoa học (ngành Vật lý lý thuyết), làm việc tại Đại học
Pierre & Marie Curie, Paris, Giáo sư Phạm Xuân Yêm là một trí thức luôn
quan tâm đến văn hóa, giáo dục và khoa học của nước nhà. Nhân Hội nghị lần thứ
6 của Ban chấp hành trung ương Đảng đang nhóm họp để bàn về công tác giáo dục,
khoa học, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Giáo sư về các lĩnh vực này. Chúng
tôi quan niệm, để tiếp cận và nhận thức vấn đề một cách khách quan, có thể, và
cần lắng nghe nhiều ý kiến khác nhau để có những kết luận và quyết định sáng
suốt nhất. Với tinh thần đó, chúng tôi giới thiệu cùng bạn đọc nội dung cuộc
trao đổi này.
Phóng
viên: Thưa giáo sư, khoa học, giáo dục cũng là những
bộ phận, những thành tố cấu thành của một nền văn hóa, song trong nhận thức
thông thường, bề ngoài, theo cơ cấu hành chính thì đó là ba ngành, ba lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội. Khoa học, giáo dục, văn hóa là ba chân
kiềng tạo nên trí tuệ và phẩm chất, tư cách của một cộng đồng, một dân tộc. Là
một nhà khoa học, đồng thời là nhà giáo, người am hiểu và quan tâm nhiều đến
đời sống văn hóa, nền văn hóa của đất nước, lại làm việc ở Paris – một trung
tâm văn hóa lớn của thế giới, xin đề nghị Giáo sư phân tích mối liên hệ hữu cơ
của ba nhân tố này trong tổng thể một nền văn hóa?
Yếu tố nào có vai trò tiên phong, định hướng sự vận
động của nền văn hóa? Và yếu tố nào đóng vai trò động lực, chi phối sự vận động
của nền văn hóa, của xã hội?
Giáo
sư Phạm Xuân Yêm: Đúng như cách đặt vấn đề của quý Tạp chí, thực sự
có mối liên hệ hữu cơ giữa ba nhân tố (khoa học, giáo dục, văn hóa) trong tổng
thể một nền văn hiến, tôi thiển nghĩ chúng theo một tuần tự trước sau. Bằng
cách đảo ngược vấn đề như một cách tiếp cận, theo chân nhà Phật và cũng là
phương pháp thường được khai thác trong khoa học, tôi mạn phép dùng chữ “Vô”
như vô văn hoá, vô giáo dục mà không cần dài dòng vì chúng ta đều cảm nhận rất
rõ ràng chúng là gì trong muôn vàn khía cạnh phong phú của cuộc sống. Trái lại,
ít ai dùng chữ vô khoa học, nó hẹp hơn và chỉ hàm nghĩa thiếu logic, thiếu
thuyết phục bằng lý luận và thực nghiệm.
Văn hoá theo tôi hiểu là cả một tiến trình để đạt
tới chân thiện mỹ, nó bàng bạc bao trùm mọi suy tư, hành động, ngôn từ, giao
tiếp của con người cho đáng là người. Văn hoá chỉ có thể thăng hoa khi được xây
dựng trên một nền tảng giáo dục cởi mở, không độc tôn, theo những
tiêu chuẩn phổ quát tiến bộ của thế giới để dẫn đường người học trở nên công
dân trung thực, đạo đức, có kiến thức, đủ khả năng tự lập để suy xét và hành
động; sau đó trong Giáo dục thì yếu tố Khoa học (với cả hai chân là Nhân văn và
Tự nhiên) đóng vai trò hải đăng.
Sau đây tôi chỉ giới hạn đến yếu tố Khoa học tự
nhiên. Nó không phải ngẫu nhiên mà có như ngày nay chúng ta biết.
Khoa học được xem là khai sinh tại Hy Lạp cổ đại 2600 năm trước, nhưng rồi từ
thế kỷ thứ ba trước công nguyên nó phải nhường chỗ cho những quan tâm đạo đức,
siêu hình, thần học, tôn giáo; chúng chi phối độc tôn cả văn hoá lẫn tư duy.
Hơn ngàn năm sau (750-1100) là thời đại khoa học mang dấu ấn Hồi giáo vàng son
rồi tàn lụi kéo dài triền miên để vào thế kỷ XVII với Galilei, Kepler,
Descartes, Newton, khoa học mới bứt phá thoát khỏi các sợi dây trói buộc
nó. Nó luôn luôn phải trả giá đắt cho những cuộc bứt phá của mình. Từ đó
Khoa học trở thành có tính khai minh, ảnh hưởng lan toả vào phong trào khai
sáng ở thế kỷ XVIII trên toàn lục địa Âu châu.
Từ thế kỷ XVIII qua thế kỷ XIX, khoa học đã phát
triển ngày càng mạnh mẽ, và được thể chế hoá vào các trường đại học, viện
nghiên cứu, hàn lâm. Khoa học có giá trị ngày càng phổ quát. Giáo dục, Văn
hoá, Kinh tế và hầu như mọi lãnh vực đều ít nhiều chịu ảnh hưởng ngày càng tăng
của khoa học. Khoa học đã dần dần thay đổi thế giới quan Trung cổ từ Âu sang Á.
Đầu thế kỷ XIX, với sự ra đời của Đại học nghiên cứu Đức (Humboldt), khoa học
được đưa vào trung tâm của giáo dục đại học, lấy nghiên cứu khoa học làm nòng
cốt hoạt động. Chân lý không còn là bất biến, cái cấm kỵ, mà là “cái mãi mãi
phải đi tìm”. Đại học do đó phải có tự do, tự chủ để nghiên cứu và giảng dạy.
Quyền lực tôn giáo mạnh mẽ và cũng tàn bạo biết bao
nhiêu nhưng cuối cùng đã không ngăn chặn được sự phát triển khoa học của thời
đại. Sự xuất hiện và phát triển khoa học đã có một tác dụng thâm nhập toàn khắp
vào thế giới quan của con người và giúp con người nhận biết quyền lực nào đáng
được tin hay không. Khoa học tự nó có hệ thống giá trị đạo đức của nó, có nguồn
gốc trong sự cởi mở đối với các ý tưởng mới, và sự nghi ngờ trước những gì
không được kiểm chứng bởi thực nghiệm và lý tính, tôn trọng cuộc truy vấn có
lương tâm những chân lý mới, có tính chăm chút, cẩn trọng và hoàn hảo. “Trong
các bông hoa đạo đức của khoa học thì tính trung thực là bông hoa cao cả nhất,
điều không thể nghi ngờ” như Max Planck, người khai sáng thuyết lượng tử, viết.
Chính thể nào không am hiểu sự phát triển lành mạnh
của khoa học sẽ tụt hậu. Ở đâu chỉ bè phái không tôn trọng chân lý, ở đó gian
dối tràn lan. Khoa học là “sức mạnh đại diện” trên trường quốc tế. Quốc
gia nào có khoa học phát triển lên đỉnh cao là có uy tín lớn trên trường quốc
tế.
Phóng
viên: Có thể lấy dẫn chứng từ lịch sử dân tộc Việt
Nam? Và có thể dẫn chứng từ các nước khác, nước Pháp chẳng hạn?
Giáo
sư Phạm Xuân Yêm: Điểm son của triết lý giáo dục tiến bộ trên
thế giới là sự bao dung, tôn trọng và bàn cãi tự do những tư tưởng, triết lý,
chính kiến, tín ngưỡng khác nhau, chúng bổ túc cho nhau. Tư duy độc lập, phê
phán, phản biện, tự vấn không ngừng là những yếu tố quyết định của một nền giáo
dục tiến bộ và phổ quát. Không thể áp đặt độc tôn bất kỳ một hệ
tư tưởng chính trị, tôn giáo, triết học nào đó lên sự nghiệp giáo dục
đào tạo con người. Nó kìm hãm tư duy sáng tạo, đẩy lùi nền văn hóa và phát
triển xã hội.
Triết lý giáo dục ở Pháp dựa trên hai nền tảng: nhà
trường thế tục và cộng hòa. Nhà nước tôn trọng và trung lập đối với mọi tín
ngưỡng, chính kiến, tư tưởng, nhân sinh quan, triết học. Nhà trường là nơi hòa
trộn mọi thành phần, không phân biệt nguồn gốc, chủng tộc, giai cấp xã hội, lý
lịch của học sinh.
Ta thấy rõ sự khác biệt so với thời phong kiến hàng
ngàn năm bên Đông Á mà học thuyết cửa Khổng sân Trình đã độc tôn thống trị tư
duy thần dân. Cũng như Cơ đốc giáo với giả thuyết điạ tâm sai lầm bên Âu châu
đã đưa Giordano Bruno lên dàn hỏa thiêu và Galileo Galilei phải quỳ
gối tự chối bỏ tác phẩm đặt nền tảng cho Vật lý và Thiên văn hiện đại. Điển
hình gần đây hơn là thời Stalin đã dùng quyền lực chính trị để áp đặt lý thuyết
dỏm, ngụy tạo về di truyền của Lyssenko, gây tai hại cho nền khoa học của Liên
Xô vào giữa thế kỷ XX. Cũng vậy, giáo điều phát xít Đức đã đẩy lùi nền khoa học
Âu châu trong bao năm, làm nhiều tài năng phải di tản sang Mỹ châu.
Gần đây hơn là thời đen tối của chủ nghĩa Mao bên Trung Quốc, của nhóm Hồi giáo
cực đoan Taliban bên Afghanistan. Ở Việt Nam vụ án phong trào Nhân
văn-Giai phẩm thời 1956 đã ảnh hưởng tiêu cực đến văn hoá, đạo đức, giáo dục,
thậm chí khoa học kéo dài cả hàng thế hệ.
Việt Nam chưa có nền khoa học xứng đáng với tiềm
năng, vài con én không làm nổi mùa xuân nên đất nước mãi yếu kém. Nhà khoa học
chân chính, lương thiện hiện nay có đồng lương không đủ sống cho gia đình. Làm
sao có khoa học phát triển mạnh mẽ được? Nhà khoa học không được nói sự thật,
làm sao phục vụ quốc gia hữu hiệu được? Tuy cùng chung cảnh ngộ trong lịch sử
cận đại, vậy mà nay Việt Nam lại trở thành một phản thí dụ của Hàn quốc: Thể
chế kinh tế – chính trị chậm cải cách đổi mới, tính phi-trung thực, tinh thần bè
phái, lợi ích cục bộ, không tôn trọng tiếng nói nhân dân và
trí thức, thích nghe một chiều, không ngước nhìn thế giới để học và
tự biên tự diễn, những cái đó giết chết văn hoá, khoa học và giáo dục.
Thăng trầm trong lịch sử của các nền văn hiến, đặc
biệt Ai Cập, và của khoa học nói riêng cứ đeo đuổi tôi hoài.
Phóng
viên: Về văn hóa, giáo dục và khoa học Việt Nam hiện
nay đang có những nhận định khác nhau. Một xu hướng có vẻ nổi trội là cho rằng
văn hóa – giáo dục – khoa học của chúng ta đang có nhiều sa sút,
khủng hoảng và tụt hậu so với thế giới, thậm chí có mặt so với chính mình, nhất
là về giáo dục. Về giáo dục chẳng hạn, có người phân tích và đi đến nhận định
là tư duy giáo dục còn lạc hậu hơn Đông Kinh nghĩa thục hồi đầu thế kỷ trước
hay hồi Chính phủ Trần Trọng Kim với cải cách giáo dục của Hoàng Xuân Hãn và
các cộng sự. Giáo sư có bình luận gì về những nhận định này? Và Giáo sư có nhận
định riêng của mình không?
Giáo
sư Phạm Xuân Yêm: Đúng quá đi chứ. Nếu làm mất đi tính khách quan,
trung thực của khoa học, thì làm sao có thể xây dựng được văn hoá, khoa học,
giáo dục lành mạnh? Điều kiện tiên quyết là phải trả lại sự khách quan cho xã
hội. Đó là tính khoa học, tính trung thực, tính công bằng. Cá nhân tôi có những
kỷ niệm vô cùng quý giá đối với nền giáo dục của thời kháng chiến giành độc lập
(1946 -1954) với các thầy Hoàng Ngọc Phách, Đinh Gia Khánh, Hà Sĩ Hồ… ở Trường
trung học cơ sở Hàn Thuyên từ Bắc Ninh di tản dần tới Thái Nguyên, đêm đêm học
hành dưới đèn dầu hỏa, thầy trò thương yêu nhau như một đại gia đình vì
cùng chia sẻ niềm tin trong sáng là độc lập, tự do, hạnh phúc. Chương trình
giáo dục lúc đó chủ yếu là sự kéo dài chương trình Hoàng Xuân Hãn. Ngày
nay khi giáo dục đi lạc ra ngoài con đường chung của thế giới, như Giáo sư
Hoàng Tụy nhận định, thì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh ngày càng xa lắc.
Phóng
viên: Thế nào là một nền giáo dục hay một nền khoa học
hiện đại hay là các tiêu chí của một nền giáo dục – khoa học hiện đại?
Giáo
sư Phạm Xuân Yêm: Khách quan, định hướng theo khoa học, không giáo
điều, không quan liêu, không giả dối. Mọi người cần phải được tôn trọng, và
được trọng dụng theo tài năng chứ không theo tiêu chuẩn chính trị, tôn giáo,
nguồn gốc gia đình, bè phái lợi ích cục bộ. Giáo dục cần phải khoa học, khai
phóng, dân chủ, nhân văn, cởi mở với thế giới, không đóng kín, học hỏi thế
giới, phi ý thức hệ, phi chính trị hoá.
Phóng
viên: Để có một nền giáo dục – khoa học hiện đại, cần
một nền tảng văn hóa như thế nào?
Giáo
sư Phạm Xuân Yêm: Một nền văn hoá khai phóng, nghĩa là cởi mở với cái
mới trong tinh thần chân – thiện – mỹ. Tôn trọng chân lý, tôn trọng sự đa dạng
ý kiến, quý trọng cái tiến bộ, phải biết cái gì cũ, lạc hậu cần phải bỏ và thay
vào đó bằng cái mới, không ngừng đi tìm học hỏi ở các dân tộc khác. Cần nhìn
nhận hoạt động dân chủ, thảo luận thẳng thắn. Tôn trọng nhân tài xứng
đáng, vai trò trọng yếu của lực lượng khoa học, công nghệ.
Phóng
viên: Phải chăng một nền/hệ thống giáo dục hay một nền
khoa học sẽ tạo những giá trị văn hóa của mình?
Giáo
sư Phạm Xuân Yêm: Đồng ý hoàn toàn, chỉ xin thay chữ hay
bằng chữ và, … một nền/hệ thống giáo dục và
một nền khoa học…
Phóng
viên: Giáo dục và khoa học của các quốc gia/dân tộc có
một nền tảng chung là tri thức. Phân biệt các nền văn hóa là nhờ sự khác
biệt truyền thống/bản sắc. Theo Giáo sư thì giáo dục và khoa học đòi hỏi những
phẩm chất chung nào? Tại sao?
Giáo
sư Phạm Xuân Yêm: Mỗi quốc gia đều có truyền thống/ bản sắc. Hãy xem
tấm gương Nhật Bản, Hàn quốc. Họ hiện đại hoá đất nước nhưng có mất mát truyền
thống / bản sắc của họ đâu? Còn Việt Nam theo đuổi đường lối chính
trị có phù hợp với bản sắc và văn hoá dân tộc không?
Tính trung thực, niềm say mê, tính hiếu kỳ tìm hiểu,
sự cần cù chăm chỉ, khắc nghiệt với chính mình, quyết tâm lao động, không nề
khó khăn của từng cá nhân có lẽ là những phẩm chất chung đòi hỏi bởi một nền
giáo dục và nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh.
Phóng
viên: Trong lịch sử, và cả trong thế giới hiện đại, cả
văn hóa, giáo dục và khoa học, nếu muốn phát triển phải phụ thuộc vào sự tiến
bộ của cách thức tổ chức và quản trị xã hội. Một xã hội nếu giải phóng và phát
huy được tiềm năng sáng tạo sẽ phát triển được giáo dục và khoa học, sẽ có một
nền văn hóa tiến bộ và có nhiều giá trị ưu việt. Nhìn vào thực tiễn của đất
nước hiện nay, theo Giáo sư thì vấn đề nào, điều kiện nào có ý nghĩa quyết định
để phát huy được những phẩm chất tốt đẹp về trí tuệ và tinh thần, cả nguồn lực
vật chất nữa nhằm khắc phục tình trạng sa sút, lạc hậu của nền giáo dục, non yếu
của nền khoa học và sự suy thoái của văn hóa?
Giáo
sư Phạm Xuân Yêm: Mỗi quốc gia muốn phát triển thành công, cần phải
có một loại khai sáng nhất định từ những nhà lãnh đạo của các tổ chức và quản
lý xã hội, càng cao càng phải có ý thức và trách nhiệm lớn hơn đối với lịch sử,
điều dĩ nhiên trong một xã hội công bằng dân chủ. Các nhà lãnh đạo trước nhất
phải là những nhà chính trị có tinh thần khai sáng, hiểu biết văn hoá thế giới,
có tầm nhìn, hiểu biết giá trị của giáo dục, khoa học, của con người, của tính
chính trực, của công bằng, của sự tôn trọng nhân cách, của những quyền tự do cơ
bản, như quyền phát biểu, quyền nghiên cứu chân lý và phổ biến. Nhà nước cần
tạo điều kiện để cùng với nhân dân tạo ra tri thức cần thiết cho sự phát triển
đất nước, và trị vì trên cơ sở đó, chứ không phải áp đặt. Cứ nhìn sự khác biệt
như mặt trăng mặt trời giữa hai cách thức tổ chức xã hội của Bắc
và Nam Triều Tiên thì rõ.
Đất nước nào xây dựng thành công đều có một triết lý
của khai sáng: Nhật Bản, Hàn Quốc, ĐàiLoan, Singapore. Trung quốc, trong
chừng mực nào đó, cũng có một loại khai sáng. Họ đã thành công. Họ hiểu quy
luật của sự vận hành của khoa học trong xã hội, và đã tạo điều kiện về văn hoá,
giáo dục, cơ chế để cho khoa học, công nghệ phát triển. ViệtNam còn lúng túng,
chưa tìm ra một loại khai sáng cho mình, đổi mới thế nào, cách mạng công nghiệp
là gì, và làm sao để khoa học và công nghệ trở thành động lực phát triển. Đại
Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI cho thấy sự bế tắc trong
việc thực hiện cuộc đổi mới toàn diện giáo dục-đào tạo, phát triển khoa học và
công nghệ là quốc sách đã được đề ra từ 16 năm trước.
Phóng
viên: Trên thế giới có những trường hợp tương tự, có
những đặc điểm lịch sử và văn hóa gần với chúng ta mà/và họ đã giải quyết thành
công để phát triển về văn hóa, giáo dục và khoa học?
Giáo
sư Phạm Xuân Yêm: Hãy xem Nhật Bản từ thế kỷ XIX thời Minh Trị Duy
Tân. Mới hơn là Hàn Quốc, ĐàiLoan, Singapore và nhất là Hồng Kông.
Tại sao Việt Nam không học được gì hay của những quốc gia này?
ViệtNam đang sống giữa vùng đất có nhiều thần kỳ kinh tế hơn tất cả nơi khác,
sao VN không học được để cất cánh theo?
Cải
cách thể chế là quan trọng nhất, là chìa khoá để
giải quyết thành công sự phát triển văn hoá, giáo dục và khoa học, tuy không
thể một sớm một chiều, nhưng sẽ là tụ điểm của mọi thành phần dân tộc trong
ngoài nước.
Phóng
viên: Chúng ta có thể tham khảo và học tập được những
gì ở các quốc gia – dân tộc, các nền văn hóa đó?
Giáo
sư Phạm Xuân Yêm: Hãy xem văn hoá đọc sách và giáo dục của họ.
ViệtNam chưa tỏ ra biết học, muốn học, cứ coi mỗi cuốn sách xuất bản chỉ có
chừng một, hai ngàn bản thì thấy rõ. Hãy xem khoảng
cách giữa ViệtNam và những quốc gia phát triển khu vực ngày càng xa ra, chứ
không thu hẹp lại. Học chính sách chọn nhân tài, đãi ngộ nhân tài, tinh thần
công minh chính trực, rất khoa học của họ từ trên xuống dưới. Ở
Việt Nam không phải như thế. Tiêu chuẩn chọn người không phải do tài
năng, mà do quan hệ (thân thuộc, phe nhóm), do chạy chọt bằng tiền, đó là một
trong những bằng chứng của tệ nạn tham nhũng hiện hành.
Phóng
viên: Cách tham khảo, học tập họ nên như thế nào để có
hiệu quả nhất, vừa phát triển được và vừa bảo vệ được truyền thống và bản sắc
của mình?
Giáo
sư Phạm Xuân Yêm: Câu này phải đặt ra cho những nhà lãnh đạo. Thế
giới hiện nay muốn học cái gì cũng được, miễn là có quyết tâm. Hãy xem các quốc
gia trong khu vực, họ phát triển thành rồng, nhưng có ai nói họ mất bản sắc,
hay không có bản sắc? Các bài học không thiếu. Nhật Bản cũng từng học khắp nơi
ở phương Tây, từng học của Trung Hoa một ngàn năm trước, rồi lại học của phương
Tây, ai chê Nhật Bản mất bản sắc? Họ giữ được truyền thống Khổng giáo còn
hơn quốc gia từng là nôi của Khổng giáo là Trung Hoa. Trung Hoa đã phá nát các
giá trị đạo đức của Khổng giáo, chứ không phải Nhật Bản đổi mới.
Sự sám hối của tổng thống U Thein Sein xứ
Myanmar và sự hoà giải với anh thư Aung San Suu Kyi vì quyền lợi tối cao của
đất nước là một bài học quý báu cho tất cả chúng ta.
Phóng
viên: Chúng tôi hy vọng khi đã nhận ra con đường đúng,
cần đi, phải đi thì nhất định tinh thần Việt, trí tuệ Việt sẽ là động lực đưa
dân tộc ta thoát khỏi những khó khăn, bế tắc hiện nay và phát triển để tiến kịp
nhịp bước chung của thời đại, của thế giới. Trân trọng cảm ơn Giáo sư về cuộc
trao đổi này.
No comments:
Post a Comment