Thu, 04/24/2014 - 14:28 — ledienduc
Lại
một 30 tháng Tư về!
39 năm, 40 năm và có thể còn lâu hơn, chúng ta mới
có cơ hội xem xét lại ngày lịch sử này một cách nghiêm túc, công bằng và hợp
lý.
Cái ngày mang tính bước ngoặt của lịch sử, "có
triệu nguời vui và cũng có triệu người buồn". Đất nước thống nhất nhưng
lại rơi vào vòng cai quản của chế độ cộng sản, độc quyền, toàn trị, vong bản và
phi dân chủ.
Suốt từ năm 1954 trên miền Bắc và từ 30 tháng Tư năm
1975 trên cả nước, Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) cầm quyền, đưa đất nước đi
trên con đường "định hướng xã hội chủ nghĩa" vô định.
Bộ
máy phát xít
Bộ máy cầm quyền chuyên chính vô sản của ĐCSVN là
một dạng thức của chủ nghĩa phát xít. Tôi nói như thế là vì hai hệ thống chính
trị (phát xít và cộng sản) có nhiều điểm tương đồng.
Trong đối nội và đối ngoại của cả hai hệ thống áp
dụng chính sách khủng bố, đe dọa công chúng. Anh ninh, mật vụ theo dõi toàn bộ
xã hội, tìm mọi cách loại bỏ bất kỳ đối thủ chính trị nào. Những ai bị xem là
kẻ thù đều bị kết án và giam giữ trong các trại cải tạo lao động. Với phương
pháp khủng bố, bẩm báo, gieo rắc nghị kị, nhà cầm quyền đã tạo ra một không khí
sợ hãi, không chỉ với kẻ thù mà với cả những người ủng hộ chế độ.
Cũng giống như chủ nghĩa phát xít, chế độ cộng sản
thành lập tổ chức thanh niên, dạy dỗ họ rằng đất nước của họ là tươi đẹp nhất
và nhồi sọ ý thức hệ toàn trị. Đối với đảng, thanh niên là một tài sản lớn, bởi
vì họ là tương lai.
Cả hai hệ thống duy trì một chế độ độc tài, độc
đảng, cấm mọi sự tồn tại của các đảng phái chính trị khác.
Bộ máy quyền lực của hai hệ thống được xây dựng dựa
trên nguyên tắc cực kỳ tập trung. Công tác tuyên truyền hết sức quan trọng
trong một nhà nước độc tài toàn trị. Nhà cầm quyền sử dụng nó để trưng diễn bộ
mặt và có thể làm thay đổi thế giới.
Chủ nghĩa độc tài toàn trị hạn chế các quyền cơ bản
của con người, ức chế sự phát triển của văn hóa, giáo dục và các giá trị tinh
thần của dân tộc, đồng thời gây ra các vụ giết người hàng loạt. Trong mười thập
kỷ qua, nhân loại đã trải qua nhiều đau thương, làm thay đổi khái niệm tổng thể
về con người và nền văn minh. Chúng đã tác động lớn lên lịch sử và đời sống của
nhân dân. Lý do chính của việc này là lợi ích của nhà nước độc tài quan trọng
hơn cuộc sống của con người.
ĐCSVN còn đi xa hơn, tệ hại hơn cả chủ nghĩa phát
xít. Công an giả mạo thường dân hoặc sử dụng dân phòng, thậm chí giới giang hồ,
xã hội đen, côn đồ hoá và lưu manh hoá sự đàn áp.
Ngày 24 tháng 1 năm 2006, Với 99 phiếu thuận và 42
phiếu chống, các nước thành viên Nghị viện châu Âu đã phán quyết chủ nghĩa cộng
sản là tội ác của nhân loại.
Tại Ba Lan, một nuớc cựu cộng sản, ở Điều 13 của
Hiến pháp mới năm 1997 đặt chủ nghĩa cộng sản bên cạnh chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc và cấm mọi hình thức hoạt động, tuyên truyền cho các
chủ nghĩa này.
Hoà
hợp hoà giải
Không thể hoà hợp hoà giải khi còn chế độ cộng sản.
Chế độ này không có nhu cầu hoà hợp hoà giải, mà chỉ làm những động tác lừa mị,
dối trá.
Bản
thân giữa người Việt với nhau không cần bất kỳ sự hoà giải nào. Hàng năm vẫn có hàng trăm ngàn người Việt từ nước ngoài về thăm quê
hương, sinh hoạt bình thường trong cộng đồng. Không có lòng căm thù lẫn nhau
trong dân chúng mà chỉ có nỗi đau và lòng căm thù đối với chế độ cộng sản.
Thật khôi hài, gần đây, Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng
ngoại giao, Chủ tịch Uỷ Ban người Việt ở nước ngoài, gọi những người tị nạn
cộng sản là "nạn nhân của chiến tranh"!
Trừ một số chạy cộng sản trước và trong ngày 30
tháng Tư năm 1975, sau ngày này, cả nước hoà bình, thống nhất, làm gì còn chiến
tranh nữa! Thế nhưng, hàng triệu người đã vượt biển, vượt rừng, bỏ nước ra đi,
để lại sau lưng khoảng nửa triệu xác chết. Họ không phải là "nạn nhân của
chiến tranh" mà là nạn nhân của chính sách giam giữ cải tạo hàng trăm ngàn
quân dân cán chính của chế độ Sài Gòn, của chính sách cải tạo công thương
nghiệp, tập đoàn hoá nông nghiệp, ngăn sông cấm chợ, cưỡng bức đi kinh tế mới,
phân biết đối xử khắt khe với những ai liên quan đến "ngụy"...
Làm
sao để có dân chủ
Nếu so với giai đoạn cách đây khoảng một thập niên
thì tình hình xã hội Việt Nam có nhiều biến chuyển tích cực hơn.
Năm
2002, Lê Chí Quang chỉ vì những bài báo cảnh giác âm mưu thôn tính
Việt Nam của Trung Quốc, mà đã bị kết án nặng nề 4 năm tù, bị đối xữ tệ hại khi
bị bệnh, rồi bị chiêu dụ và vô hiệu hoá. Những cảnh báo của Lê Chí Quang đã
hoàn toàn chính xác với cuộc tổng xâm luợc mềm của Trung Quốc hiện nay trên
lãnh thổ Việt Nam.
Cùng một thời gian ấy, bác sĩ Phạm Hồng Sơn
chỉ vì đã dịch bài "Thế nào là dân chủ" lấy từ trang Web của Toà đại
sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội mà bị kết án "tội gián điệp" với 13 năm tù
(phiên tòa phúc thẩm giảm từ 13 năm tù xuống còn 5 năm tù, 3 năm quản chế).
Xã hội Việt Nam giờ đây trưởng thành hơn về ý thức
dân chủ và quyền con người. Có nhiều hơn những người dân trong nước ca thán chế
độ và phản ứng bất thuận với các chính sách của nhà cầm quyền trên mạng xã hội
mà không bị trấn áp.
Một số hội đoàn dân sự ra đời bất chấp ngăn cấm của
chế độ như Hội Cựu Tù nhân Luơng tâm, Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, Văn đoàn
độc lập, Hiệp hội Dân oan Việt Nam, Mạng lưới Bloggers Việt Nam..., mặc dù chưa
có, hoặc không công khai ban lãnh đạo, hoạt động chưa có tổ chức quy củ, và đa
phần đang ở trạng thái vận động, chưa kết tụ thành phong trào xã hội rộng lớn.
Nhà cầm quyền trong tiến trình hội nhập toàn cầu, vì
những lợi ích kinh tế, bị áp lực quốc tế, lúc này lúc khác có vẻ
"thoáng" hơn một cách khôn ngoan, nhưng vẫn giữ vững thái độ chính
trị kiên quyết và dứt khoát với các đối tượng được xem là có thể tạo
ra nguy cơ cho chế độ.
Người Việt ở hải ngoại có vai trò hỗ trợ quan trọng
trong việc thông tin và vận động quốc tế, nhưng đất nước đổi thay hay không phụ
thuộc vào người dân trong nuớc. Thực tế của các nước cựu cộng sản Đông Âu cho
thấy các đảng phái chính trị ở hải ngoại khó mà tìm được vị trí trên sân khấu
chính trị khi Việt Nam có bầu cử tự do.
Chỉ khi nào các phong trào dân sự thật sự đi vào
lòng người, lan toả rộng khắp, đặc biệt trong hơn 70% dân số sống ở nông thôn
và dân lao động thành thị, lúc đó mới có khả năng nổ ra một cuộc cách mạng thay
đổi.
Dân chủ sẽ có khi lực lượng đối lập hình thành, áp
lực xã hội lớn, cuộc tranh đấu ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng tới nền kinh
tế của đất nước. Lúc đó buộc nhà cầm quyền phải đối thoại và chuyển hướng.
Hoàn cảnh thực tế cho thấy không thể dùng biện pháp
bạo lực để chuyển hoá chế độ mà chỉ có thể bằng sức mạnh của các cuộc xuống
đường bất bạo động, nhiều khi phải chịu hy sinh, tổn thất; song song là sự ứng
xử tỉnh táo, sáng suốt của những người đang nằm trong bộ máy cầm quyền. Hai yếu
tố này chắc chắn phải đi đôi với nhau thì mới tránh một cuộc đổ máu không cần
thiết. Hệ thống chính trị lạc hậu và ảo tưởng "định hướng xã hội chủ
nghĩa" phải được huỷ bỏ toàn diện để thay thế bằng một thể chế khác tiến
bộ hơn.
Kết
luận
Xã hội bị băng hoại đạo đức, thói vô trách nhiệm của
nhà cầm quyền, tư tưởng cam phận nô lệ, tội phạm gia tăng mọi nơi, tham nhũng ở
mức độ thành những đường dây mafia, nợ nần của đất nước chồng chất... Tuy
nhiên, trong những khó khăn ấy, nhà cầm quyền cộng sản vẫn còn kiểm soát được
và vẫn không ngừng sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, độc quyền để
tuyên truyền, ngu tối hoá xã hội, và gia tăng bạo lực để củng cố và duy trì chế
độ.
39 năm, một thời gian đủ dài dồn nén bất công, chán
chường và phi lý để có thể bùng phát một cuộc cách mạng, nhưng nó vẫn nằm trong
hy vọng và có lẽ còn phải trải qua khá lâu nữa.
©
Lê Diễn Đức
No comments:
Post a Comment