Phạm
Văn Đồng là một nhân vật cao cấp trong bộ máy lãnh đạo của cộng sản. Phạm Văn
Đồng cũng như nhiều đan em của Hồ Chí Minh đã gây nhiều tội ác như Cải cách
ruộng đất, Nhân văn giai phẩm, thảm sát Mậu Thân... Tuy nhiên nổi bật hơn cả là
hai tội ác: Bán nước và tàn ác với quân dân cán chính VNCH.
Xin
giới thiệu với bạn đọc tóm tắt tiểu sử của ông Phạm Văn Đồng lấy từ ngôi trường
cộng sản mang tên của “đồng chí”:
Phạm Văn Đồng
Phạm
Văn Đồng bí danh là Tô, sinh ngày 01/3/1906 tại làng Thi Phổ Nhất, nay thuộc xã
Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi; là nhà hoạt động chính trị, nhà văn hóa
lớn của Việt Nam. Những năm 1925- 1926, khi đang học tại Hà Nội, ông tham gia
phong trào học sinh đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu (1925) và để tang cụ
Phan Chu Trinh (1926). Sau đó, ông đi Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp huấn luyện
do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
(1926).
Cuối
năm 1927, ông về nước, tham gia hoạt động cách mạng ở Sài Gòn, đến đầu năm
1929, được cử vào Kỳ bộ thanh niên Nam kỳ. Tháng 5/1929, ông đi Hồng Kông
(Trung Quốc) dự đại hội của tổ chức này và được bầu vào Tổng bộ và Ban trù bị
thành lập Đảng Cộng sản. Tháng 7/1929, Phạm Văn Đồng trở về Sài Gòn hoạt động
cách mạng và bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, đày đi Côn Đảo. Tháng
7/1936, do thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, thực dân Pháp ở Đông Dương
buộc phải trả tự do cho Phạm Văn Đồng nhưng lại đưa ông về quê quản thúc. Trở
về Quảng Ngãi một thời gian, ông bí mật liên lạc với tổ chức Đảng ở Quảng Ngãi,
tiếp tục hoạt động cách mạng, sau đó ra Hà Nội tham gia hoạt động công khai.
Tháng
5/1940, Phạm Văn Đồng đi Côn Minh (Trung Quốc) gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Sau
đó, ông được cử đi hoạt động cách mạng ở Liễu Châu, Tĩnh Tây (Trung Quốc). Đầu
năm 1942, ông được cử về Cao Bằng xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Cao
Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Tháng 8/1945, Phạm Văn Đồng dự Đại hội Quốc dân Tân
Trào và được vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thành
công, ông trở thành Bộ trưởng Bộ Tài chính trong Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 5/1946, ông đảm nhận nhiệm vụ Trưởng phái đoàn
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán với Chính phủ Cộng hòa Pháp tại
Hội nghị Fôngtenơblô (Fontainnebleau).
Trước
ngày kháng chiến toàn quốc (19/12/1946), Phạm Văn Đồng được cử vào Quảng Ngãi
làm đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ tại miền Nam Trung bộ, trực tiếp lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở đây. Đầu năm 1949, ông được điều về
chiến khu Việt Bắc. Tháng 8/1949, ông được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó
Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Tháng 5/1954, ông là Trưởng đoàn đại biểu của
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Giơnevơ (Genève) về Đông
Dương. Từ tháng 9/1954, ông giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao, Trưởng ban Đối ngoại của Trung ương Đảng. Ông là đại biểu Quốc hội liên
tục từ khóa I (1946- 1960) đến khóa VII (1981- 1987). Từ tháng 9/1955 đến tháng
12/1986 (31 năm), ông liên tục giữ cương vị Thủ tướng Chính phủ (có lúc gọi là
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Trong nhiều năm ông đảm đương nhiệm vụ Phó Chủ
tịch Hội đồng Quốc phòng, Chủ tịch Hội đồng chi viện cho tiền tuyến.
Năm
1947 ông được bầu bổ sung ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, năm 1949 chuyển
thành ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại các Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ II (2/1951), lần thứ III (9/1960), lần thứ IV (12/1976), lần
thứ V (3/1982), Phạm Văn Đồng đều được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và
được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), lần thứ VII (6/1991) và lần thứ VIII
(6/1996), ông được Ban Chấp hành Trung ương Đảng cử làm Cố vấn Ban Chấp hành
Trung ương; đến tháng 12/1997 được kết thúc nhiệm vụ theo yêu cầu của ông.
Phạm
Văn Đồng qua đời tại Hà Nội ngày 29/4/2000. (1)
Đọc
qua tiểu sử của Phạm Văn Đồng đã cho thấy đây là một trong những tay lãnh đạo
gạo cội và là một “học trò của Bác” như chính ông ta thừa nhận. Vậy thử
xem tội ác của Phạm Văn Đồng như thế nào sau cả cuộc đời làm lãnh tụ của đảng
CSVN? Những điều đó sẽ được phác họa trong bài viết này.
I. Cùng
Hồ Chí Minh bán nước:
Hồ Chí Minh &
Phạm Văn Đồng
Phạm
Văn Đồng và Hồ Chí Minh được biết đến như là hai kẻ tội đồ trong công hàm bán
nước năm 1958. Tuy nhiên cũng phải sơ qua để thấy những lối chối tội quanh co
của chính Phạm Văn Đồng và đảng CSVN để chúng ta thấy họ là những kẻ bán nước
nhưng hết sức man trá.
Chối
tội quanh co:
Thứ
nhất,
việc bán nước bằng công hàm 1958 đã rõ ràng. Đảng cộng sản viện cớ là để thống
nhất đất nước, nhưng thực sự đảng cộng sản quyết tâm đánh chiếm miền Nam vừa vì
tham vọng bành trướng cố hửu của cộng sản, vừa làm tay sai quốc tế cho Liên Xô
và Trung Quốc. Lê Duẩn bí thư thứ nhất đảng Lao Động (Tên gọi khác của CS), đã
từng nói: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” (Vũ Thư
Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422 và tiết lộ
của Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991 đến 2000, trong cuộc phỏng vấn
của đài BBC ngày 24-1-2013.)
Liên
Xô và Trung cộng đều mang đặc tính chung của các nước cộng sản là luôn luôn chủ
trương bành trướng, bá quyền. Tại Liên Xô, ngày 15-10-1964, Leonid Brezhnev đảo
chính và lên làm thư ký thứ nhất đảng cộng sản Liên Xô thay Nikita Khrushchev.
Brezhnev, tăng cường viện trợ cộng sản Việt Nam, gửi quân và chuyên viên sang
giúp cộng sản Việt Nam. Đây là khởi đầu chủ trương can thiệp mới của Liên Xô,
mà về sau các nước Tây phương gọi là chủ thuyết Brezhnev, theo đó. “Nguyên
lý Xô viết về luật quốc tế khẳng định quyền của Cộng đồng Cộng sản can thiệp
bất cứ ở đâu mà các lực lượng nội tại và ngoại lai thù địch đối với chủ nghĩa
cộng sản tìm cách biến đổi sự phát triển một nước theo chủ nghĩa xã hội hướng
về chủ nghĩa tư bản, một tình thế được xem có tính cách đe dọa đối với tất cả
các nước cộng sản.” (The New Lexicon Webster’s Encyclopedic Dictionary of
English Language, Nxb. Lexicon, New York, 1988, mục “Brezhnev Doctrine”.)
Trung
cộng ở sát ngay phía bắc của Việt Nam. Từ năm 1950, Trung cộng giúp cộng sản
Việt Nam vừa vì sự cầu viện của cộng sản Việt Nam và của Hồ Chí Minh, vừa vì
lợi ích an ninh bản địa Trung cộng và đặc biệt là để đổi lấy Hoàng Sa - Trường
Sa của Việt Nam. Mao Trạch Đông đã từng nói: “Không thể chỉ nói Trung Quốc
giúp Việt Nam, phải nói rằng Việt Nam cũng giúp Trung Quốc là sự giúp đỡ lẫn
nhau.” (Trích La Quý Ba, “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản”,
trong Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam
chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc,
2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch. Montreal: Nxb. Tạp chí Truyền Thông
(in lại), số 32 & 33, 2009, tr. 27.)
Trung
cộng đã giúp đỡ từ vật dụng nhỏ nhất cho đến tàu chiến, xe tăng để quân đội
VNDCCH có thể tiến hành cuộc chiến tranh gây đau thương cho dân tộc. Chúng ta
không lạ gì các khẩu 12,7, kim khâu, đá lửa, mũ cối, xe tăng K63, T59... là của
Trung cộng viện trợ. Sau đây là lời kể của ông Dương Danh Dy, cựu đại sứ Việt
Nam tại Trung cộng với tờ báo mới (của đảng cộng sản): (2)
“Những
người ở lứa tuổi tôi (và trẻ hơn hai mươi, hai nhăm tuổi) hiện nay đều không
quên những viện trợ to lớn của nhân dân Trung Quốc anh em cho chúng ta trong
thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Từ vũ khí đạn dược đến gạo ăn vải mặc, từ ô tô, tầu
thủy, máy bay đến chiếc xe đạp, máy khâu, từ gói mì chính đến cái kim sợi
chỉ..., không sao kể hết.
Tôi
còn nhớ, từ chiếc mũ cối và đôi dép cao su Việt Nam đưa mẫu sang, các kỹ sư và
công nhân Trung Quốc đã chế tạo cho quân đội ta và nhân dân ta những chiếc mũ
cối và đôi dép lốp nổi tiếng một thời.
...
Ít người Việt Nam được biết những con tầu Giải phóng tải trọng chỉ có 50 tấn
nhưng dùng động cơ mạnh tới 800 mã lực (nghĩa là có tốc độ rất nhanh) để có thể
từ một cảng miền Bắc chở vũ khí, lương thực... vào cập bến tại một nơi ở vùng
giải phóng miền Nam rồi trở lại ngay miền Bắc trong đêm đã được các kỹ sư và
công nhân một nhà máy đóng tầu Trung Quốc thiết kế và chế tạo xong trong một
thời gian ngắn kỷ lục theo yêu cầu của chúng ta.”
Hồ
Chí Minh nghe chỉ thị của Trung cộng
Thứ
hai,
Trung cộng coi cuộc chiến với người Pháp sẽ giúp họ lấy lại được đất đai mà họ
đã xâm lấn bất hợp pháp tại Việt Nam đã bị người Pháp phát hiện, lấy lại cho
Việt Nam thông qua hiệp ước Pháp-Thanh. Đây là một trong những lý do mà người
Pháp dân chủ cũng là “kẻ thù” trong chiến lược bành trướng, chiếm đất Việt Nam
của Trung cộng. Vì vậy họ cần Việt Minh-Cộng Sản thân Trung cộng chiến đấu với
Pháp, chiến thắng hay thất bại của Việt Minh không quan trọng bằng việc Trung
cộng sẽ chiếm lại được phần đất xâm lấn Việt Nam. Bằng chứng là trong cuốn sách
của tác giả Hà Cẩn với tiêu đề “Mao Chủ tịch của tôi” được tôi giới thiệu
ở “Những
sự thật không thể chối bỏ - Phần 9” đề cập đến vấn đề này
như sau tại trang 157: “Người Pháp đã giúp An Nam chiếm đất đai của Trung
Hoa. Việt Minh là đồng minh của Trung Hoa. Trung Hoa đã độc lập, Việt Minh
chiến tranh với Người Pháp sẽ giúp Trung Hoa đòi lại những phần đất này...”
Thực
chất thì Việt Nam của chúng ta đâu có chiếm đất của Trung cộng. Người Pháp chỉ
muốn bảo vệ quyền lợi hợp pháp về lãnh thổ Việt Nam qua hiệp ước Pháp-Thanh.
Trung cộng rất muốn Việt Minh chống Pháp để có được đồng minh lấy cắp đất nước
ta dễ dàng hơn. Đến đây chúng ta nhận ra một điều là: Người Pháp tuy đô hộ nước
ta nhưng không lấy một tấc đất của Việt Nam, ngược lại họ đã giúp Việt Nam giữ
đất giống như Pháp làm với Thái và Campuchia, Lào. Còn ngược lại người cộng sản
luôn tự xưng là “Kháng chiến chống Pháp, giải phóng dân tộc” lại là kẻ tiếp tay
cho Trung cộng ăn cắp đất đai của chúng ta. Đây là một hành động cho thấy bản
chất bán nước, làm gián điệp cho Trung cộng của Hồ Chí Minh và đàn em cộng sản
Việt Nam.
Thứ
ba,
để khẳng định thêm cho bàn tay của Trung cộng tham gia chiến tranh Việt Nam để
đổi lại Hoàng Sa - Trường Sa thông qua công hàm 1958, chúng ta nhận thấy trong
cuộc chiến tại Điện Biên Phủ, chính tướng Vi Quốc Thanh của Trung cộng tham gia
chỉ huy các trận đánh đó. Để minh chứng cho việc Vi Quốc Thanh tham gia chiến
tranh với Pháp, xin gửi tới bạn đọc bằng chứng được chính quyền cộng sản công
bố. Ví dụ như trong bài viết về Vi Quốc Thanh trên website của sở Khoa học và
công nghệ tỉnh Nghệ An: “Mối quan hệ tốt đẹp giữa Bác Hồ với Vi Quốc Thanh
được thiết lập từ hồi kháng chiến chống Pháp đầu những năm 50 của thế kỷ XX -
khi mà Vi Quốc Thanh sang làm Trưởng đoàn Cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt
Nam theo sự phân công của Đảng và Nhà nước Trung Quốc.” (3)
Trường
Chinh, Hồ Chí Minh và cố vấn Trung cộng
Ngoài
ra còn có bằng chứng sau đây cho thấy sự xuất hiện của quân Trung cộng trực
tiếp tham chiến tại Việt Nam. Trên tờ nhật báo tại Hongkong đăng theo Reuter
(tờ báo uy tín) có viết về sự xuất hiện của 320.000 quân Trung cộng tại Việt
Nam chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản:
Trung
cộng thú nhận có 320000 lính tham trận tại Việt Nam
Thêm
vào đó, theo sử gia Chen Jian, tác giả quyển “Mao’s China and the Cold War”,
vào năm 1965, Bắc Kinh đã gửi 320.000 quân sang tham chiến tại VN. Nhà văn Vũ
Thư Hiên, trong quyển “Đêm Giữa Ban Ngày” trong trang 229 đã trích dẫn
một đoạn từ cuốn “Giọt Mưa Trong Biển Cả” của ông Hoàng Văn Hoan
(tr.345) về “sự kiện Hoa quân nhập Việt”:
“Từ
năm 1965 đến năm 1970, theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng Lao Động
Việt Nam, Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã phái hơn ba
mươi vạn bộ đội vào Việt Nam”.
Vi
Quốc Thanh (phải) cùng Hồ Chí Minh tham quan công viên TP Nam Ninh
(tháng 2-1959)
Xét
về thực tiễn, Trung cộng thu lợi nhiều mặt thông qua chiến tranh Việt Nam.
Trước hết, thông qua chiến tranh Việt Nam, Trung cộng bắt tay được với Mỹ năm
1972, được Mỹ thừa nhận chỉ có một nước Trung cộng, công nhận Đài Loan là một
phần lãnh thổ Trung cộng, công nhận không kiếm cách làm chủ khu vực châu Á-Thái
Bình Dương, và chống đối bất kỳ nước nào hay nhóm nước nào muốn làm bá chủ vùng
này(ý ám chỉ Liên Xô). Đó là những điều Trung cộng mong muốn nhất.
Về
biển Đông, Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958 thừa nhận Hoàng Sa và
Trường Sa là của Trung cộng để Trung cộng viện trợ cho cộng sản vũ khí, trang
bị và quân lính đánh chiếm VNCH. Vì vậy năm 1974, nhân cơ hội VNCH bị Mỹ bỏ
rơi, bị cộng sản Miền Bắc tấn công dồn dập thì Trung cộng ra tay cướp đoạt Hoàng
Sa thuộc lãnh thổ VNCH. Sau năm 1975, khi cộng sản Việt Nam chạy theo Liên Xô,
muốn trốn nợ Trung cộng. Trung cộng liền đánh 6 tỉnh biên giới năm 1979 với câu
khẩu hiệu của Đặng Tiểu Bình “dạy cho CSVN một bài học”. Vì vậy, khi
Đông Âu lung lay, cộng sản Việt Nam qua Thành Đô xin đầu hàng Trung cộng năm
1990, đưa đến hai hiệp ước 1999 và 2000. Trung cộng chiếm đất, chiếm biển của
Việt Nam. Như vậy, tuy không được tiếng là bên thắng cuộc, nhưng Trung cộng là
kẻ thu hoạch nhiều nhất sau chiến tranh Việt Nam. Và để biện minh cho những
hành động bán nước của mình bằng công hàm 1958, cộng sản Việt Nam đã cho những
tên cán bộ trả lời một cách gượng ép.
Thứ
nhất,
trong cuộc phỏng vấn GS Hà Văn Thịnh - giảng dạy môn lịch sử tại trường Đại học
Huế của RFA có nói: “Hồi đó tôi học năm thứ nhất Trường Đại Học Tổng
Hợp Hà Nội. Nói thực là ông Hoàng Tùng khi đó, tôi không nhớ rõ thầy giới thiệu
như thế nào, nhưng mà thầy giới thiệu là các em hôm nay - 180 sinh viên Khoa Sử
- Đại Học Tổng Hợp Hà Nội nghe ông Hoàng Tùng - Ủy viên Trung Ương Đảng, Tổng
biên tập báo Nhân Dân, hay là Ban tư tưởng Trung ương gì đó, chức vụ tôi không
nhớ, nhưng mà ông Hoàng Tùng nói chuyện về lịch sử thì ông có nói chuyện Hoàng
Sa. Ông nói nguyên văn thế này: "Vì ta bận đánh Mỹ, không có thời gian và
chưa đủ khả năng để giải phóng Hoàng Sa nên nhờ bạn Trung Quốc giải phóng. Sau
này mình thống nhất đất nước rồi phía bạn sẽ trả cho mình."” (4)
Như
vậy đây chính là cách chạy tội của cộng sản vòng vo trong việc bán Hoàng Sa-
Trường Sa cho Trung cộng.
Thứ
hai,
Hội nghị về COC - DOC tại Indonesia ngày 4/9/2010 với tính cách phi chính phủ
về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không này, phía
cộng sản Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về
sự im lặng của họ năm 1974, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ
tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. “Trong thời gian này”, cộng sản
Việt Nam nói, “có những tình trạng rắc rối về chính trị và xã hội tại Việt
Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung Quốc đã lợi dụng, theo từng bước
một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã
thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974.”
Đây
thực chất cũng chỉ là một hình thức ngụy biện mà thôi!
Thứ
ba,
Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ Trưởng bộ Ngoại Giao, trong một cuộc họp báo tại Hà
Nội ngày 2 tháng 12 năm 1992 nói như sau: “Các nhà lãnh đạo của ta lúc trước
xác nhận về Hoàng Sa và Trường Sa như vậy là do theo hiệp định Genève năm 1954
về vấn đề Đông Dương thì tất cả lãnh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào Nam là
thuộc chính quyền miền Nam, kể cả hai quần đảo này.”
Đây
là một câu nói ngụy biện của cộng sản hiện nay để biện minh cho hành động bán
nước của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng.
Thứ
tư,
không khó để thấy thêm những bằng chứng cho thấy cộng sản Việt Nam hiện nay vẫn
theo gương Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tiếp tục bán nước bởi những phát biểu
tri ân giặc:
Đầu
tiên là bản tuyên bố chung 10 điểm “Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện Trung Quốc - Việt Nam” ký kết ngày 21/06/2013 giữa Tập Cận Bình tổng
bí thư đảng cộng sản Trung cộng và Trương Tấn Sang.
Tiếp
sau đó, để đền đáp “công ơn” hiểm độc trên của Trung cộng, Phùng Quang Thanh
đại tướng ủy viên BCT / TW đảng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt đảng, quân
đội Nhân Dân Việt Nam khẳng định tại buổi họp mặt kỷ niệm ngày thành lập Giải
Phóng Quân Trung Quốc tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam ngày 28/7/2012 như sau: “...
Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí
nghĩa, to lớn có hiệu quả mà đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân
dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam...”
Thay
mặt cho nhà nước Cộng Hòa Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Nguyễn Thiện Nhân - phó Thủ
Tướng chính phủ, trong lần chủ trì “Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc - Hội Hữu
nghị Việt Nam - Trung Quốc” tại Hà Nội ngày 10/07/2012 đã chỉ thị: “Hội
hữu nghị Việt Nam -Trung Quốc sẽ tổ chức các hoạt động tri ân các cá nhân, tổ
chức và địa phương Trung Quốc, xuyên suốt trong 5 năm, sau đại hội này...”
Tiêu
biểu cho tư tưởng chiến lược của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Trần Đăng Thanh
đại tá phó giáo sư - tiến sĩ, nhà giáo ưu tú, thuộc học viện Chính trị Quốc Gia
Bộ Quốc Phòng trong một buổi giảng bài tại Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây
ngày 19/12/2012 đã phân tích: “...Trong 4 năm kháng chiến chống Pháp, 21 năm
chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc đã từng nhường cơm xẻ áo
dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép để chúng ta giành thắng
lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ. Như vậy ta không quên họ đã từng
xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho
chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc
hai điều không được quên...”
Nghĩa
trang liệt sỹ Trung cộng trên đất Việt Nam
Trong
khi, bia mộ liệt sỹ Việt Nam bị đục bỏ những hàng chữ về quân xâm lược
Trung cộng.
Năm
1977, bản thân Phạm Văn Đồng giải thích quan điểm của ông ta về công hàm này
như sau: "đó là thời chiến nên phải nói như vậy thôi". Vậy sự thật về
việc bán nước của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng thế nào? Chúng ta cùng nhìn lại
đôi nét ở phần dưới.
II. Bán
nước có văn bản:
Về
tội ác bán nước của Hồ Chí Minh xin bạn đọc quay lại “Những
sự thật không thể chối bỏ - Phần 2” để tìm hiểu kỹ hơn. Hồ Chí Minh
là người chỉ đạo Phạm Văn Đồng ra công hàm 1958 bán Hoàng Sa, Trường Sa cho
Trung công. Bài viết này xin điểm lại một số nét chính của sự việc bán nước của
Phạm Văn Đồng.
II.a.
Tuyên bố của phía Trung cộng về chủ quyền ở HS-TS của VN:
Ngày
4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung cộng mà đại diện là thủ tướng Chu Ân Lai
tuyên bố về chủ quyền hải đảo của Trung cộng. Tuyên bố này được thông qua trong
kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân. Bạn đọc có thể tìm hiểu
tại links sau: (5) (Những
links cũ trong “Những sự thật không thể chối bỏ” - phần 2 đã bị xóa).
Nội dung của tuyên bố trên của Trung cộng được dịch ra tiếng Việt như sau:
1.
Trước hết là bản dịch của dịch giả Trần Đồng Đức:
Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh
hải ngày 4 tháng 9 năm 1958
Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc (Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa)
Đại biểu ủy viên thường vụ đại hội nhân dân toàn quốc liên quan
việc phê chuẩn quyết nghị công bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân
Trung Hoa
(Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân
dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua)
Quyết nghị
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân
dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố lãnh
hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Đính kèm: Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa
về lãnh hải
Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:
* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải
lý. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan
cùng các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo
của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo
Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của
Trung Quốc.
* Hai: Lãnh hải của Trung Quốc đại lục và duyên hải của các đảo
được tính theo đường thẳng nối liền những điểm mốc ven bờ làm đường biên cơ sở,
thủy vực từ đường biên cơ sở này hướng ra ngoài 12 hải lý là lãnh hải của Trung
Quốc. Phần nước thuộc đường biên cơ sở này hướng vào bên trong, bao gồm vịnh
Bột Hải, phần trong hải vực Quỳnh Châu, đều là phần nội hải của Trung Quốc. Các
đảo thuộc đường biên cơ sở này hướng vào trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao
Đăng, đảo Mã Tổ, đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị
Đảm, đảo Đông Định đều thuộc về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc.
* Ba: Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng của ngoại quốc, chưa
được chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép, không được tiến nhập
vào lãnh hải vào không gian trên lãnh hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào vận
hành tại lãnh hải của Trung quốc, phải tôn trọng pháp lệnh hữu quan của chính
phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
* Bốn: Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3 áp dụng cho cả Đài Loan
cùng các hòn đảo xung quanh, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo
Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường
Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc. Đài Loan và Bành Hồ
địa khu hiện nay đang bị Mỹ dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là hành vi phi pháp xâm
phạm chủ quyền và sự toàn vẹn của lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Đài Loan và Bành Hồ đang chờ đợi để thu hồi, chính phủ nước cộng hòa nhân dân
Trung Hoa sử dụng tất cả những phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích
đáng để thu phục những khu vực này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc, không
cho phép ngoại quốc can thiệp.
(Chú
ý ở đây: Tây Sa và Nam Sa là cách gọi của Trung Cộng về HS-TS của Việt
Nam)
2.
Bản dịch của báo Đất Việt (Cộng sản Việt Nam):
Nội
dung bản dịch này là chính xác bản thân chúng ta có thể kiểm chứng. Tôi xin nêu
ra đây một minh chứng bản dịch của Trần Đông Đức là chính xác vì vấn đề chính
trong tuyên bố Trung cộng tuyên bố về chủ quyền HS-TS đã được tờ Đất Việt (Báo
của đảng cộng sản Việt Nam công nhận) (6).
Trong
bài viết của báo Đất Việt (6)
có đoạn: “Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc
Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung
Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi,
bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam)”.
Như
vậy: Trung cộng rõ ràng đã tuyên bố HS-TS là của họ trong tuyên bố 4/9/1958 của
Chu Ân Lai. Cả dư luận lẫn đảng cộng sản Trung quốc, cộng sản Việt Nam công
nhận.
II.b.
Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng:
Ngay
sau khi tuyên bố của Trung cộng về việc HS- TS là của họ thì Phạm Văn Đồng lúc
đó là Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) tiến hành việc đưa ra công
hàm ký ngày 14/9/1958. Công hàm này như sau:
Công
hàm này ngoài ra thời điểm đó còn được các tờ báo Nhân dân thời điểm đó đưa tin
(Báo nhân dân là cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Việt Nam). Đây là hình ảnh
của Báo nhân dân đã đưa tin về sự kiện này:
Và
ngay sau đó thì sáng ngày 21.9.1958, Nguyễn Khang, Đại sứ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tại Trung cộng, đã gặp Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa và đã chuyển bức công hàm của Phạm Văn Đồng đến Chu Ân
Lai.
Trước
đó, năm 1956, Ung Văn Khiêm, nhân tiếp phái đoàn ngoại giao Trung cộng, Thứ
Trưởng bộ Ngoại Giao có tuyên bố với Lý Chí Dân (Li Zhimin), tham tán sứ quán
Trung cộng tại Việt Nam: “chiếu theo tài liệu Việt Nam thì HS và TS thuộc
về Trung Quốc”.
Lê
Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào: “Theo sử liệu VN
thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống”. Sự việc này tạp chí Beijing
Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài “Chủ quyền
không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa”.
Sau
này, khi trả lời Xuân Hồng BBC thì Bà Bảy Vân vợ Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt
Nam Lê Duẩn nói: “Phạm Văn
Đồng có ký văn bản: Ngụy nó đóng ở ngoài đó. Cho nên giao cho TQ quản lý Hoàng
Sa... Phạm Văn Đồng có ký tên...” (7). Điều này càng xác
nhận cho việc bán nước của Phạm Văn Đồng là không thể chối cãi.
III.
Cùng với Lê Duẩn trả thù man rợ quân dân cán chính VNCH:
Lê Duẫn & Phạm Văn Đồng
Cùng
với tội ác bán nước, Phạm Văn Đồng còn cùng với Lê Duẩn thực hiện hành động trả
thù đối với quân dân cán chính VNCH. Tội ác của Lê Duẩn đã được gửi tới trong “Những
sự thật cần phải biết - Phần 7”. Để minh chứng thêm tội ác đồng mưu
của Phạm Văn Đồng xin bạn đọc tìm hiểu một số bẳng chứng dưới đây.
Thứ
nhất,
ngày 1-11-1978, Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng dẫn đầu một phái đoàn đảng và chính
phủ sang Mạc Tư Khoa để cùng Brezhnev ký bản hiệp ước “hợp tác và hữu nghị”,
theo đó hai nước sẽ liên minh với nhau cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự.
Điều 6 của hiệp ước này nói rõ là nếu một trong hai nước bị tấn công, cả hai
nước sẽ dùng những biện pháp thích hợp đối phó. Từ đó, Liên Xô đã hết lòng viện
trợ cho Việt Nam. Số tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ USD. Bù lại,
Việt Nam sẽ để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể Đà Nẵng làm đầu
cầu quân sự để kiềm chế Trung Hoa và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ trong
vùng Thái Bình Dương. Trong cuộc gặp với Brezhnev, ngoài báo cáo tình hình quan
hệ với Trung cộng, Campuchia thì Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng đã báo cáo: “Cơ
bản tình hình trong nước chúng tôi đã ổn định do tôi và các đồng chí trong bộ
chính trị không để cho ngụy quân, ngụy quyền có thể nổi lên bằng việc áp dụng
mô hình nhà tù như thời đồng chí Xtalin. Chúng tôi chỉ lo lắng là Campuchia
đang leo thang khủng bố...” (Trích: “Văn thư lưu trữ của đảng cộng sản Liên
Xô trang 422”).
Vậy
không ai khác mà chính Lê Duẩn cùng cộng sản Việt Nam đã đẩy quân dân cán chính
VNCH vào lao tù khắc nghiệt. Và cùng với Lê Duẩn không ai khác chính là Phạm
Văn Đồng.
Thứ
hai,
cuốn sách: “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo
trong năm 1975 tại Việt Nam đã giới thiệu ở phần trên cũng viết tại trang
83: “Đồng Chí Tổng bí thư đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn cùng ban chấp
hành trung ương đảng đã tiến hành ổn định nhanh chóng tình hình sau ngày
30/4/1975. Chính sách kỷ luật hà khắc mà nhà nước áp đặt cho những người lính
chế độ Sài Gòn đã được chính đồng chí Tổng bí Thư Lê Duẩn đề ra trong một cuộc
họp của bộ chính trị...”
Tuy
nhiên cuốn sách này cũng cho biết thêm tại trang 84: “Lúc ban đầu, chính
quyền và ban bí thư đảng Lao Động lo sợ áp lực của Liên Hợp Quốc mà đứng đầu là
Mỹ sẽ lên án và tăng cường cấm vận kinh tế. Nhưng do được sự hậu thuẫn và cổ vũ
của những đồng chi trong bộ chính trị như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức
Thọ, Phạm Hùng... thì chính sách đã được thực hiện...”
Qua
hai đoạn trích chúng ta thấy gì? Đó là cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Lê Duẩn
đã có sự “cổ vũ, hậu thuẫn” của nhiều lãnh đạo đảng CSVN, trong đó có
Phạm Văn Đồng trong việc bỏ tù và trả thù quân dân cán chính VNCH. Vậy thì Đồng
cũng chính là một trong những kẻ chủ mưu việc này. Tội ác đó là không thể chối
bỏ.
Thứ
ba,
chế độ học tập cải tạo rập theo khuôn mẫu của Trung cộng đã được áp dụng tại
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ năm 1954 với tội phạm, tù binh và tù nhân bị
kết án chống đối chính quyền. Một số nhà văn liên quan đến phong trào Nhân Văn
- Giai Phẩm... phải đi cải tạo lao động vì tư tưởng của họ.
Đến
thời kỳ Phạm Văn Đồng làm thủ tướng thì luật trừng phạt tù nhân nhất là “phản
động” theo định nghĩa của cộng sản cảng nặng nề hơn. Theo văn bản luật pháp thì
quy chế bắt giam vào trại cải tạo chiếu theo nghị quyết 49 (49-NQTVQH) của Hội
đồng Bộ trưởng (Phạm Văn Đồng là chủ tịch HĐBT) thông qua ngày 20 tháng 6, 1961
và bắt đầu áp dụng kể từ 8 tháng 9 năm 1961. Đối tượng là "thành phần phản
cách mạng" và đe dọa an ninh công chúng sẽ bị trừng trị nghiêm minh trong
giam giữ. Căn cứ vào nghị quyết này mà cộng sản đẻ ra nhiều chính sách đối với
quân dân cán chính VNCH dưới thời Đồng làm thủ tướng. Nội dung chính là:
“Tất
cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên
chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
Tất
cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.
Tất
cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách
mạng.
Tất
cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải
tạo.
Bốn
thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là "những
thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng.". Thời gian "cải tạo"
được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa "tiến bộ" thì
"cải tạo" thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm
nữa... cho đến khi nào "học tập tốt, cải tạo tốt" thì về...”
Chính
vì vậy Phạm Văn Đồng khi làm thủ tướng đã ra thêm nhiều nghị quyết trừng trị
quân dân cán chính VNC mà họ gọi là “Phản động”. Một tháng sau khi xâm chiếm
được Miền Nam, cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông
Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những
người quốc gia chống cộng đi "học tập cải tạo," thực chất là đưa đi
tù để trả thù. Có thể xem thêm một trong những quy định đó tại thư viện pháp
luật của cộng sản (8).
Thứ
tư,
“Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình
diện. Theo đó Phạm Văn Đồng đã chỉ đạo bắt giữ con số người phải trải qua giam
giữ sau này 30/4/1975 là hơn 200.000 trong tổng số 1 triệu người ra trình diện.
Tính đến năm 1980 thì chính phủ Việt Nam công nhận còn 26.000 người còn giam
trong trại. Tuy nhiên 1 số quan sát viên ngoại quốc ước tính khoảng 100.000 đến
300.000 vẫn bị giam. Ước tính của Hoa Kỳ cho rằng khoảng 165.000 người đã chết
trong khi bị giam”. (Trích: “Le Livre Noir du Communisme: Crimes, Terreur,
Répression do Robert Laffont”, S.A, Paris xuất bản lần đầu năm 1997-Phần IV về
Á Châu).
Theo
Aurora Foundation thì việc bị giam giữ dài hạn thường bị chuyển từ trại này
sang trại khác có dụng ý ly gián để tù nhân không liên kết với nhau được và
đường dây liên lạc với gia đình thêm khó khăn.
Người
tù học tập, cải tạo (Ảnh Hon-Viet.uk)
Như
vậy tội ác của Phạm Văn Đồng đối với quân dân cán chính VNCH cũng là không thể
nào chối cãi.
IV. Kết
luận:
Ngoài
những tội ác cùng với Hồ Chí Minh như gây chiến tranh phi nghĩa, giết người dân
vô tội thì Phạm Văn Đồng còn nổi lên hai tội đó là bán nước và tàn ác với quân
dân cán chính VNCH. Tội ác đó thời xưa sẽ phải “tru di cửu tộc”. Tuy nhiên ngày
nay không còn điều đó, nhưng nhất định sau khi có dân chủ tự do, người dân Việt
Nam sẽ phải lên tiếng để trả lại công đạo cho những người đã khuất. Đồng thời
vạch tội bán nước cho Trung cộng của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng để thấy bộ
mặt thật của cộng sản chỉ là: Bán nước, độc tài và lừa đảo mà thôi!
28/8/2013.
Chú
thích:
(1)
http://thpt-phamvandong-phuyen.edu.vn/about/).
(2) http://www.baomoi.com/Chuyen-it-biet-ve-quan-he-Viet--Trung-thoi-chong-My/122/3269339. epi
(3) http://www.ngheandost.gov.vn/JournalDetail/ar1367_Gia_dinh_Vi_Quoc_Thanh_voi_ba_lan_sinh_nhat_Bac_Ho_o_Quang_Tay,Trung_Quoc.aspx
(4) http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-39th-anniv-of-theloss-of-hoangsa-mlam-01192013092838.html
(5) http://lunwen2.com/New-190.html
(6) http://www.baodatviet.vn/quoc-phong/201107/Su-that-ve-cong-ham-cua-Thu-tuong-Pham-Van-dong-2256218/
(7) http://www.youtube.com/watch?v=z8jX8YrRiG4
(2) http://www.baomoi.com/Chuyen-it-biet-ve-quan-he-Viet--Trung-thoi-chong-My/122/3269339. epi
(3) http://www.ngheandost.gov.vn/JournalDetail/ar1367_Gia_dinh_Vi_Quoc_Thanh_voi_ba_lan_sinh_nhat_Bac_Ho_o_Quang_Tay,Trung_Quoc.aspx
(4) http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-39th-anniv-of-theloss-of-hoangsa-mlam-01192013092838.html
(5) http://lunwen2.com/New-190.html
(6) http://www.baodatviet.vn/quoc-phong/201107/Su-that-ve-cong-ham-cua-Thu-tuong-Pham-Van-dong-2256218/
(7) http://www.youtube.com/watch?v=z8jX8YrRiG4
-------------------------------------------------
NHỮNG
SỰ THẬT CẦN PHẢI BIẾT
Đặng Chí Hùng -
Danlambao
NHỮNG
SỰ THẬT CẦN PHẢI BIẾT [4] : “THỐNG NHẤT” – XIN ĐỪNG XẢO NGỘN ! (Đặng Chí Hùng –
Danlambao) 12-12-2012
NHỮNG
SỰ THẬT CẦN PHẢI BIẾT [9] : TINH THẦN DÂN TỘC TIẾP NỐI QUA LÁ CỜ (Đặng Chí Hùng
– Danlambao) 4-7-2013
NHỮNG
SỰ THẬT CẦN PHẢI BIẾT [12] : TẠI SAO KHÔNG LÀ LỄ PHỤC DÂN TỘC ? (Đặng Chí Hùng
– Danlambao) 3-8-2013
NHỮNG
SỰ THẬT CẦN PHẢI BIẾT [17] : NGU DÂN & MỊ DÂN ĐỂ GIỮ ĐẢNG (Đặng Chí Hùng –
Danlambao)
23-8-2013
No comments:
Post a Comment