Vũ Hoàng
& Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2013-08-28
2013-08-28
Năm năm trước, khi Hoa Kỳ và Âu Châu bị khủng hoảng
tài chính, toàn cầu bị Tổng suy trầm, các biện pháp cấp cứu khiến lãi suất và
đồng tiền Âu Mỹ mất giá. Khi ấy, dòng tư bản chảy về nơi có lợi hơn, đó là các
nước đang phát triển. Ngày nay, tình hình lại đảo ngược khi kinh tế các nước
đang phát triển đều có dấu hiệu suy giảm và khối công nghiệp hóa Âu-Mỹ-Nhật lại
hồi phục khiến tư bản tài chính rút khỏi các thị trường đang lên và gây ra
nhiều chấn động quốc tế. Chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa sẽ phân tích hậu
quả của sự chuyển động ngược này trong chương trình chuyên đề của Diễn đàn Kinh
tế.
Mỹ
đổi hướng đầu tư …
Vũ
Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, cuối Tháng
Bảy vừa qua, tiết mục chuyên đề của chúng ta đã giải thích vì sao mà các nền
kinh tế “đang lên” sẽ lại xuống. Kỳ này, vào cuối Tháng Tám, ta sẽ tìm hiểu
tiếp về hậu quả gần xa của sự đảo chiều này vì cùng lúc đó, dấu hiệu phục hồi
tại Hoa Kỳ khiến ngân hàng trung ương Mỹ nêu ý kiến là sẽ giảm dần mức độ bơm
tiền kích thích kinh tế làm lãi suất dài hạn và phân lời trái phiếu tại Mỹ tăng
vọt. Chủ trương đó của Hoa Kỳ làm nhiều đồng bạc trên thế giới mất giá và còn
gây bối rối cho lãnh đạo Trung Quốc qua một chi tiết nhỏ mà có thể phản ảnh một
sự lúng túng rất lớn. Đó là hôm Thứ Ba 27, lãnh đạo tài chính và ngân hàng Bắc
Kinh yêu cầu ngân hàng trung ương Mỹ xem xét kỹ thời điểm và cường độ thu hút
lại lượng tiền bơm vào kinh tế để khỏi gây thiệt hại cho các nền kinh tế đang
phát triển. Nói cách khác, vì sao một quyết định của Mỹ lại làm Bắc Kinh giật
mình như vậy?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Thưa rằng nhìn trong toàn cảnh của một địa cầu hình
tròn và luồng giao dịch liên tục của hàng hóa và tư bản giữa các nước thì những
xoay chuyển hay thăng giáng trị giá tài sản là điều thường xuyên và tất nhiên.
Vì thế, khi thấy có lợi trong nhất thời vì tài sản của xứ khác trút vào thị
trường của mình để kiếm lời thì cũng nên chuẩn bị cái ngày mà dòng tài sản ấy
sẽ chảy đi nơi khác và để lại nhiều hậu quả bất lợi. Đó là một nguyên tắc
chung.
Về phản ứng của Bắc Kinh, thì Thứ trưởng Tài chính Chu Quang Diệu và Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Dịch Cương của Trung Quốc đã sợ nạn rút vốn về Mỹ sau khi Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ nói đến việc “vuốt nhọn” chính sách tiền tệ, là giảm dần và có thể hút lại lượng tiền đã bơm ra. Khi kinh tế Mỹ hồi phục và có nền móng vững chắc hơn, việc điều chỉnh chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ quả nhiên là gây hậu quả toàn cầu nên mới làm Trung Quốc và nhiều xứ khác hốt hoảng. Qua câu chuyện này, ta thấy ra vài điều đáng chú ý và chẳng nên quên.
Về phản ứng của Bắc Kinh, thì Thứ trưởng Tài chính Chu Quang Diệu và Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Dịch Cương của Trung Quốc đã sợ nạn rút vốn về Mỹ sau khi Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ nói đến việc “vuốt nhọn” chính sách tiền tệ, là giảm dần và có thể hút lại lượng tiền đã bơm ra. Khi kinh tế Mỹ hồi phục và có nền móng vững chắc hơn, việc điều chỉnh chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ quả nhiên là gây hậu quả toàn cầu nên mới làm Trung Quốc và nhiều xứ khác hốt hoảng. Qua câu chuyện này, ta thấy ra vài điều đáng chú ý và chẳng nên quên.
Vũ
Hoàng: Thưa ông, những điều ấy là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trong nhiều năm liền, khi khối công nghiệp hóa bị suy trầm và bơm tiền kích thích làm đồng bạc mất giá, các nước kết án là họ gây chiến tranh ngoại hối và cạnh tranh nhờ tiền rẻ làm hàng hóa dễ bán hơn. Khi kinh tế đã khá hơn và Hoa Kỳ cần điều chỉnh thì lại bị phê phán là làm đồng tiền xứ khác mất giá và được yêu cầu là phải suy xét thận trọng. Đâm ra, ngược với quan điểm của nhiều người trong năm năm liền, Hoa Kỳ vẫn là siêu cường kinh tế chứ không hề lụn bại để Trung Quốc sẽ qua mặt trong dăm ba năm. Điều phũ phàng ấy có nghĩa là thủ đô Washington, chứ không phải Bắc Kinh hay một nơi nào khác, vẫn là trung tâm mà các quyết định về tài chính và ngân hàng tất nhiên gây hậu quả cả tốt lẫn xấu cho xứ khác.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trong nhiều năm liền, khi khối công nghiệp hóa bị suy trầm và bơm tiền kích thích làm đồng bạc mất giá, các nước kết án là họ gây chiến tranh ngoại hối và cạnh tranh nhờ tiền rẻ làm hàng hóa dễ bán hơn. Khi kinh tế đã khá hơn và Hoa Kỳ cần điều chỉnh thì lại bị phê phán là làm đồng tiền xứ khác mất giá và được yêu cầu là phải suy xét thận trọng. Đâm ra, ngược với quan điểm của nhiều người trong năm năm liền, Hoa Kỳ vẫn là siêu cường kinh tế chứ không hề lụn bại để Trung Quốc sẽ qua mặt trong dăm ba năm. Điều phũ phàng ấy có nghĩa là thủ đô Washington, chứ không phải Bắc Kinh hay một nơi nào khác, vẫn là trung tâm mà các quyết định về tài chính và ngân hàng tất nhiên gây hậu quả cả tốt lẫn xấu cho xứ khác.
Vũ
Hoàng: Nói về hậu quả, chúng ta có thể liên tưởng đến
một tiền lệ vào năm 1997, khi luồng tư bản như thủy triều rút khỏi Đông Á khiến
nhiều quốc gia bị khủng hoảng. Thưa ông, có thể nào mà lần này chúng ta lại
thấy tái diễn chuyện ấy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ tương lai không nhất thiết là lịch sử tái diễn, nhưng trào lưu thăng giáng kinh tế thì vẫn vận hành theo một quy luật chung và cho ta nhiều bài học có ý nghĩa. Chúng ta hãy nhắc lại chuyện đó, so sánh với chuyện nay, may ra thì thấy được vài bài học.
Thứ nhất, vụ khủng hoảng 1997 xuất phát từ sự hồ hởi sảng của nhiều nước Á Châu.
Khi ấy, cả thế giới nói đến phép lạ kinh tế của tám nước gọi là “tân hưng” của Đông Á. Năm tháng trước khi khủng hoảng bùng nổ, vào đầu năm 1997, báo chí, các định chế tài chính hay học giả quốc tế còn ngợi ca các nước này. Số là sau khi Liên Xô tan rã và Chiến tranh lạnh kết thúc năm 1991, luồng tư bản tài chính thật sự được giải phóng đã lưu thông tự do hơn. Sự lạc quan chung đi cùng nỗ lực chuyển theo quy luật thị trường của Trung Quốc rồi Ấn Độ, khiến các nước Đông Á đi trước đã có một lượng tư bản dồi dào để đạt mức tăng trưởng cao.
Khi ấy rồi, người ta đánh giá sai ảnh hưởng của Hoa Kỳ khi Ngân hàng Trung ương Mỹ bắt đầu nâng lãi suất từ năm 1994. Trong một năm, lãi suất Mỹ đã tăng gấp đôi khiến Mỹ kim lên giá mạnh từ năm 1995. Nhiều quốc gia đã giàng giá đồng bạc vào tiền Mỹ như một cái neo thì bị đứt neo và phải phá giá để tự cứu nguy. Vụ khủng hoảng 1997 mở ra từ đó.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ tương lai không nhất thiết là lịch sử tái diễn, nhưng trào lưu thăng giáng kinh tế thì vẫn vận hành theo một quy luật chung và cho ta nhiều bài học có ý nghĩa. Chúng ta hãy nhắc lại chuyện đó, so sánh với chuyện nay, may ra thì thấy được vài bài học.
Thứ nhất, vụ khủng hoảng 1997 xuất phát từ sự hồ hởi sảng của nhiều nước Á Châu.
Khi ấy, cả thế giới nói đến phép lạ kinh tế của tám nước gọi là “tân hưng” của Đông Á. Năm tháng trước khi khủng hoảng bùng nổ, vào đầu năm 1997, báo chí, các định chế tài chính hay học giả quốc tế còn ngợi ca các nước này. Số là sau khi Liên Xô tan rã và Chiến tranh lạnh kết thúc năm 1991, luồng tư bản tài chính thật sự được giải phóng đã lưu thông tự do hơn. Sự lạc quan chung đi cùng nỗ lực chuyển theo quy luật thị trường của Trung Quốc rồi Ấn Độ, khiến các nước Đông Á đi trước đã có một lượng tư bản dồi dào để đạt mức tăng trưởng cao.
Khi ấy rồi, người ta đánh giá sai ảnh hưởng của Hoa Kỳ khi Ngân hàng Trung ương Mỹ bắt đầu nâng lãi suất từ năm 1994. Trong một năm, lãi suất Mỹ đã tăng gấp đôi khiến Mỹ kim lên giá mạnh từ năm 1995. Nhiều quốc gia đã giàng giá đồng bạc vào tiền Mỹ như một cái neo thì bị đứt neo và phải phá giá để tự cứu nguy. Vụ khủng hoảng 1997 mở ra từ đó.
…
xứ khác bị ảnh hưởng
Vũ
Hoàng: Ông nhắc lại chuyện cũ nên thính giả của chúng
ta có thể rút tỉa được bài học cho chuyện mới. Đó là khi kinh tế phát đạt nhờ
tư bản xứ khác trút vào xứ mình, các nước tân hưng Đông Á nghĩ là họ tạo ra
phép lạ vì lãnh đạo của họ cả tin vào sự tường thuật của báo chí. Cũng vậy, năm
2008, vì lãi suất quá thấp tại Hoa Kỳ, tư bản Âu Mỹ mới trút vào các nước tân
hưng để kiếm lời cao hơn, dư luận liền ngợi ca các nền kinh tế đang lên, điển
hình là nhóm BRIC của bốn nước Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc, và nói đến
ngày tàn của khối công nghiệp hoá. Kết cuộc thì các nền kinh tế gọi là “đang
lên” đã lại xuống và bây giờ thì họ sợ lãi suất sẽ tăng tại Hoa Kỳ khiến tư bản
triệt thoái làm hối suất đồng bạc của nhiều nước đều sụt mạnh. Thưa ông, kết
luận cần rút tỉa ở đây là những gì?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Trong tình trạng đảo chiều này, chúng ta thấy ra
vài sự thật.
Thứ nhất, lời phát biểu hay biên bản buổi họp kỳ trước của Ủy ban Tiền tệ và Tín dụng của Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ có thể gây biến động trên các thị trường tài chính toàn cầu. Vì vậy, mình nên theo dõi tin tức và cả những tranh luận rất xa vời về chính sách, ngân sách hay nhân sự tại Mỹ. Thứ hai, khi biến động xảy ra trên thị trường chứng phiếu và ngoại hối, xứ nào mà có sẵn nhược điểm bên trong thì bị tai họa nặng nhất. Nhược điểm ấy là bội chi ngân sách, lạm phát, nhập siêu quá cao nên cán cân thanh toán bị hụt, dự trữ ngoại tệ bị hao mòn, ngân hàng mắc nợ xấu, v.v…
Khi kinh tế thịnh đạt thì lãnh đạo xứ nào cũng nghĩ rằng đấy là công lao thành tích của họ. Tới khi thủy triều của tư bản tài chính lại bắt đầu rút thì hối suất đồng bạc bị sụt, là trường hợp của Ấn Độ, Brazil, Indonesia, Turkey và nhiều xứ khác. Xứ nào có sẵn nhược điểm nội tại, do mình tự gây ra mà không thấy, thì rất khó ứng phó với biến động này. Thí dụ như họ khó phá giá đồng bạc, nâng lãi suất, tăng chi và đắp vốn cho ngân hàng vì biện pháp nào cũng có thể là liều thuốc để bệnh. Nhược điểm nặng nhất là luật lệ mờ ám và lãnh đạo tham ô thì gây hậu quả tai hại nhất, là các đại gia sẽ tẩu tán tài sản để tránh bị thiệt hại bên trong và để kiếm lời ở bên ngoài!
Thứ nhất, lời phát biểu hay biên bản buổi họp kỳ trước của Ủy ban Tiền tệ và Tín dụng của Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ có thể gây biến động trên các thị trường tài chính toàn cầu. Vì vậy, mình nên theo dõi tin tức và cả những tranh luận rất xa vời về chính sách, ngân sách hay nhân sự tại Mỹ. Thứ hai, khi biến động xảy ra trên thị trường chứng phiếu và ngoại hối, xứ nào mà có sẵn nhược điểm bên trong thì bị tai họa nặng nhất. Nhược điểm ấy là bội chi ngân sách, lạm phát, nhập siêu quá cao nên cán cân thanh toán bị hụt, dự trữ ngoại tệ bị hao mòn, ngân hàng mắc nợ xấu, v.v…
Khi kinh tế thịnh đạt thì lãnh đạo xứ nào cũng nghĩ rằng đấy là công lao thành tích của họ. Tới khi thủy triều của tư bản tài chính lại bắt đầu rút thì hối suất đồng bạc bị sụt, là trường hợp của Ấn Độ, Brazil, Indonesia, Turkey và nhiều xứ khác. Xứ nào có sẵn nhược điểm nội tại, do mình tự gây ra mà không thấy, thì rất khó ứng phó với biến động này. Thí dụ như họ khó phá giá đồng bạc, nâng lãi suất, tăng chi và đắp vốn cho ngân hàng vì biện pháp nào cũng có thể là liều thuốc để bệnh. Nhược điểm nặng nhất là luật lệ mờ ám và lãnh đạo tham ô thì gây hậu quả tai hại nhất, là các đại gia sẽ tẩu tán tài sản để tránh bị thiệt hại bên trong và để kiếm lời ở bên ngoài!
Vũ
Hoàng: Thưa ông, so với lần trước thì lần này tình hình
có khác gì không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: So với lần lạc quan hồ hởi 20 năm trước rồi bị khủng hoảng 16 năm trước, tôi nghĩ rằng có nhiều khác biệt cả xấu lẫn tốt.
Lần trước, Đông Á bị khủng hoảng khi giá dầu thô còn ở mức 28 đến 35 đô la một thùng và chi phí năng lượng chưa là gánh nặng quá lớn của cán cân mậu dịch. Lần này, dầu thô đã vượt trăm đồng, chưa kể biến động sắp tới tại Trung Đông, nên các nước phải nhập xăng dầu sẽ bị khốn đốn hơn với cán cân mậu dịch và vãng lai.
Lần trước, Trung Quốc và Việt Nam chỉ bị gián tiếp vì chưa vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, lần này, họ bị trực tiếp vì buôn bán giao dịch với bên ngoài nhiều hơn. Chưa kể là Trung Quốc đang thoái trào và có quá nhiều nhược điểm bên trong. Nhưng ngược lại, lần này khu vực Đông Á lại có Nhật Bản với khả năng can thiệp khá hơn và có phương tiện tài chính phần nào bù đắp vào phần rút vốn của Hoa Kỳ. Nói chung thì sóng gió mới cũng tạo ra cơ hội mới nếu mình nhìn ra viễn ảnh lâu dài. Và lần này, cơ hội là nhân khi Trung Quốc lao đao và thiên hạ điêu đứng thì nhiều nước có thể vượt lên rất mạnh.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: So với lần lạc quan hồ hởi 20 năm trước rồi bị khủng hoảng 16 năm trước, tôi nghĩ rằng có nhiều khác biệt cả xấu lẫn tốt.
Lần trước, Đông Á bị khủng hoảng khi giá dầu thô còn ở mức 28 đến 35 đô la một thùng và chi phí năng lượng chưa là gánh nặng quá lớn của cán cân mậu dịch. Lần này, dầu thô đã vượt trăm đồng, chưa kể biến động sắp tới tại Trung Đông, nên các nước phải nhập xăng dầu sẽ bị khốn đốn hơn với cán cân mậu dịch và vãng lai.
Lần trước, Trung Quốc và Việt Nam chỉ bị gián tiếp vì chưa vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, lần này, họ bị trực tiếp vì buôn bán giao dịch với bên ngoài nhiều hơn. Chưa kể là Trung Quốc đang thoái trào và có quá nhiều nhược điểm bên trong. Nhưng ngược lại, lần này khu vực Đông Á lại có Nhật Bản với khả năng can thiệp khá hơn và có phương tiện tài chính phần nào bù đắp vào phần rút vốn của Hoa Kỳ. Nói chung thì sóng gió mới cũng tạo ra cơ hội mới nếu mình nhìn ra viễn ảnh lâu dài. Và lần này, cơ hội là nhân khi Trung Quốc lao đao và thiên hạ điêu đứng thì nhiều nước có thể vượt lên rất mạnh.
Vũ
Hoàng: Chúng ta đi qua viễn ảnh dài của sự chuyển động
này. Thưa ông, các nước đang phát triển mà bị điêu đứng như ngày nay thì có thể
làm gì để hy vọng vượt lên như ông vừa nói?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ việc đầu tiên là tránh đổ lỗi cho thiên hạ hay cho thị trường!
Lần trước, khi khủng hoảng Đông Á xảy ra năm 1997, một số quốc gia lâm nạn bèn rút tỉa bài học và cố không tái diễn sai lầm đã dẫn tới khủng hoảng. Trong số này có Nam Hàn là xuất sắc hơn cả sau khi mang cái nhục là phải nhờ Quỹ Tiền tệ Quốc tế tung tiền cấp cứu. Nhiều xứ khác có học bài mà lại chóng quên và lạc quan tếu nên ngày nay cũng gặp khó khăn, như Thái Lan, Indonesia hay Malaysia và Phillipines. Nhưng dù sao họ chưa nguy như Brazil, Turkey hay Ấn Độ là một xứ đã cải tổ mà sau lại trì hoãn và bị lạm phát lẫn tham ô lan rộng nên khó thoát hiểm.
Xuất phát từ kinh nghiệm đó, điều thứ hai nên nhớ lần này là các nước tân hưng chưa thể tự túc phát triển mà vẫn tùy vào thị trường Âu-Mỹ nên sẽ bị khá nhiều khó khăn trong năm năm tới. Nhưng đây chính là cơ hội tiến hành cải cách. Trong ngắn hạn là một hai năm thì phải vừa chống đỡ sóng gió bên ngoài, vừa rà soát lại những yếu kém bên trong để cải tổ cơ chế. Khi cải tổ thì đừng quên kỷ luật của chi tiêu và nếu có tiếp nhận đầu tư thì để phát triển qua các dự án có giá trị kinh doanh và kinh tế, chứ không để trám vào thiếu hụt ngoại tệ của mình.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ việc đầu tiên là tránh đổ lỗi cho thiên hạ hay cho thị trường!
Lần trước, khi khủng hoảng Đông Á xảy ra năm 1997, một số quốc gia lâm nạn bèn rút tỉa bài học và cố không tái diễn sai lầm đã dẫn tới khủng hoảng. Trong số này có Nam Hàn là xuất sắc hơn cả sau khi mang cái nhục là phải nhờ Quỹ Tiền tệ Quốc tế tung tiền cấp cứu. Nhiều xứ khác có học bài mà lại chóng quên và lạc quan tếu nên ngày nay cũng gặp khó khăn, như Thái Lan, Indonesia hay Malaysia và Phillipines. Nhưng dù sao họ chưa nguy như Brazil, Turkey hay Ấn Độ là một xứ đã cải tổ mà sau lại trì hoãn và bị lạm phát lẫn tham ô lan rộng nên khó thoát hiểm.
Xuất phát từ kinh nghiệm đó, điều thứ hai nên nhớ lần này là các nước tân hưng chưa thể tự túc phát triển mà vẫn tùy vào thị trường Âu-Mỹ nên sẽ bị khá nhiều khó khăn trong năm năm tới. Nhưng đây chính là cơ hội tiến hành cải cách. Trong ngắn hạn là một hai năm thì phải vừa chống đỡ sóng gió bên ngoài, vừa rà soát lại những yếu kém bên trong để cải tổ cơ chế. Khi cải tổ thì đừng quên kỷ luật của chi tiêu và nếu có tiếp nhận đầu tư thì để phát triển qua các dự án có giá trị kinh doanh và kinh tế, chứ không để trám vào thiếu hụt ngoại tệ của mình.
Vũ
Hoàng: Từ những bài học đó, thưa ông, chúng ta có thể
kết luận những gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Để kết luận, tôi nghĩ rằng bài học quan trọng nhất của ngần ấy biến động là kinh tế có thể tăng trưởng nhưng cũng dễ gây ra thất quân bình nên mới phải điều chỉnh. Tiến trình điều chỉnh ấy là hiện tượng bình thường và liên tục. Nếu tư bản ào ạt đổ vào nước ta thì nên nghĩ đến ngày có thể rút, để khi tiếp nhận thì sử dụng một cách tối hảo. Từ “tối hảo” này vẫn được sử dụng trước đây ở trong Nam, hàm nghĩa là đạt tối đa lợi ích với tối thiểu rủi ro hay phí tổn. Chuyện thứ hai là nếu kinh tế sa sút thì điều ấy có nghĩa là lương bổng bị sụt và đồng bạc mất giá, nhưng nếu tích cực khai thác điều bất lợi này như một ưu thế cạnh tranh về sau thì quốc gia lâm nạn phải trước tiên chấn chỉnh lại cơ chế tài chính và sản xuất và chuẩn bị đầu máy cho phục hồi là các doanh nghiệp. Nói chung là khi phải lùi thì đã nghĩ đến bước tiến và nếu bị sức ép thì nên chuẩn bị sức bật cho đúng hướng.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Để kết luận, tôi nghĩ rằng bài học quan trọng nhất của ngần ấy biến động là kinh tế có thể tăng trưởng nhưng cũng dễ gây ra thất quân bình nên mới phải điều chỉnh. Tiến trình điều chỉnh ấy là hiện tượng bình thường và liên tục. Nếu tư bản ào ạt đổ vào nước ta thì nên nghĩ đến ngày có thể rút, để khi tiếp nhận thì sử dụng một cách tối hảo. Từ “tối hảo” này vẫn được sử dụng trước đây ở trong Nam, hàm nghĩa là đạt tối đa lợi ích với tối thiểu rủi ro hay phí tổn. Chuyện thứ hai là nếu kinh tế sa sút thì điều ấy có nghĩa là lương bổng bị sụt và đồng bạc mất giá, nhưng nếu tích cực khai thác điều bất lợi này như một ưu thế cạnh tranh về sau thì quốc gia lâm nạn phải trước tiên chấn chỉnh lại cơ chế tài chính và sản xuất và chuẩn bị đầu máy cho phục hồi là các doanh nghiệp. Nói chung là khi phải lùi thì đã nghĩ đến bước tiến và nếu bị sức ép thì nên chuẩn bị sức bật cho đúng hướng.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này
viện thẩm mỹ anh thư ở đâu
ReplyDeletethẩm mỹ viện anh thư ở đâu
dieu khac chan may phong thuy
tham my vien anh thu o dau
vien tham my anh thu
thẩm mỹ anh thư
tham my vien anh thu o dau
dieu khac chan may
dieu khac chan may dep
hoc dieu khac chan may