I. Những bộ đại cán Tàu:
Người
ta chỉ yêu dân tộc mình khi người ta tôn trọng chính truyền thống dân tộc của
mình. Người Việt Nam rất quan trọng truyền thống dân tộc thông qua trang phục.
Đặc biệt đó là lễ phục. Tuy nhiên quan chức lãnh đạo cộng sản thì không phải
như vậy. Trên thực tế lãnh đạo cộng sản thích mặc đồ Tàu thì đúng hơn.
Từ Hồ Chí Minh...
Ngay
từ lần đầu xuất hiện trước công chúng, ông Hồ Chí Minh đã mặc áo Đại Cán khác
hẳn người dân Việt Nam lúc đó:
Hồ Chí Minh năm 1945
Trong
bức hình chụp Chính phủ Liên hiệp Lâm thời VNDCCH đầu năm 1946, ông Hồ Chí Minh
là Chủ tịch chính phủ đứng giữa, nổi bật trong bộ trang phục khác hẳn những
người còn lại, người thì vận Âu phục, người thì đóng quốc phục truyền thống. Bộ
đồ này chỉ một thời gian sau đã trở thành mốt phổ biến trong hàng ngũ lãnh đạo
cộng sản Việt Nam. Đó là bộ đồ gồm chiếc quần cùng màu và cùng chất vải với
chiếc áo đại cán bốn túi, nửa dân sự nửa quân sự, cổ đứng hoặc cổ bẻ, may sát
người hoặc may rộng theo kiểu của Mao và những lãnh đạo Tàu cộng.
Chính phủ Lâm thời
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946
Và
sau đó:
Hồ Chí Minh và đại
biểu phụ nữ dân tộc ít người tại
Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ III, tháng 3-1961
và với trẻ con nông
thôn
Thậm
chí lúc tiếp khách quốc tế cũng không thèm mặc quốc phục dân tộc:
Hồ Chí Minh trao đổi
với Chủ tịch Lào Kaysone Phomvihane tại Hà Nội năm 1966.
Thủ tướng Pháp Georges
Bidault đón tiếp Phạm Văn Đồng hồi tháng 7/1946.
Hồ Chí Minh và các
nguyên thủ quốc gia Ấn Độ năm 1958.
(Ảnh
tư liệu Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ).
Và
ông Hồ Chí Minh chết đi vào nằm hòm kính trong lăng cũng trong bộ đồ đại cán.
Bảy năm sau, đến lượt Mao vào nằm lăng trong cùng trang phục. Ngay cả sau khi
Hồ Chí Minh qua đời, hàng ngũ lãnh đạo triều Hồ vẫn duy trì mốt áo đại cán kiểu
Mao cho đến ngày chiếm lĩnh miền Nam năm 1975 và có thể cho đến ngày nổ ra
chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979.
Chết rồi vẫn “đại
cán”
Hồ Chí Minh và Đặng
Tiểu Bình (sao giống nhau quá vậy?)
Tổng thống Sukarno
và Hồ Chí Minh tại Bandung, nhân
chuyến thăm Indonesia của Hồ năm 1959
Còn
đây là một số bài viết miêu tả bộ áo đại cán của Hồ Chí Minh.
Thứ nhất,
đọc bài báo miêu tả tượng của Hồ Chí Minh tại khắp các địa phương trong tỉnh
Ninh Bình viết mới thấy toàn là “bác mặc áo Đại cán”. Không có bất cứ tượng nào
để cho Hồ Chí Minh mặc quốc phục. Có lẽ các thế hệ sau này của đảng cộng sản
quá hiểu sở thích và chiều lòng Hồ Chí Minh ngay cả khi đã đi gặp Mác - Lê -
Mao: “Tượng Bác tại Bảo tàng Tam Điệp: ...Tượng Bác mặc áo sơ mi, bên ngoài
khoác hờ chiếc áo đại cán trên vai... Tượng Bác tại huyện ủy Yên Mô: ...Tượng
Bác ở tư thế đứng, mắt nhìn thẳng, tay phải giơ lên cao, tư thế đang chào; tay
trái khuỳnh ra phía sau, bàn tay cầm cuốn sách, mặc áo đại cán, quần âu, chân
đi dép cao su... Tượng Bác ở UBND xã Yên Thái, huyện Yên Mô... Tượng Bác ở tư
thế đứng, mắt nhìn thẳng, tay phải giơ lên cao, tư thế đang chào; tay trái
buông xuôi, mặc áo đại cán, quần âu, chân đi dép cao su... Đền thờ Bác Hồ tại
Khánh Phú, Yên Khánh: ...Tượng Bác ở tư thế ngồi trên ghế, chân chữ ngũ, tay
phải đặt nơi đầu gối, tay trái cầm cuốn sách, mắt nhìn thẳng, mặc bộ quần áo
đại cán, chân đi dép cao su...”
Thứ hai,
đọc bài báo trên báo quân đội nhân dân cộng sản chúng ta sẽ nhận ra một điều là
bài báo khẳng định mặc áo Đại Cán chính là một thói quen hay chính là style
chuẩn của Hồ. Mời bạn đọc xem phần trích dẫn này: “Dạo này tiếng Bác nhỏ hơn
so với những năm trước. Trang phục vẫn thế. Cái áo lụa, cái quần lụa nâu
sẫm, hôm nào nực thì mặc may ô trắng. “Đi ra ngoài thì mặc áo đại cán ka-ki
màu vàng nhạt, đội mũ dạ đen Trung Quốc...” (Trích: “Gặp bí
mật tại Pa-ri và trở về Hà Nội”)
Hồ Chí Minh cùng
Xuân Thủy
Thứ ba,
đọc hồi ký của Vũ Khoan - cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Thương
mại, rồi Phó Thủ tướng Chính quyền cộng sản cho thấy Hồ Chí Minh đã chọn “đại
cán” làm quốc phục khi đi thăm khách nước ngoài: “Đi thăm các nước nhiệt
đới, Bác cũng vẫn ăn mặc y như vậy. Còn khi tới thăm các nước bên châu Âu, Bác
mới mặc một bộ “đại cán” dạ (tức là áo cài khuy tới tận cổ, không đeo cra-vat)
và đi giầy vải hay giầy da.”
Tới các quan chức cộng sản khác
Tôn Đức Thắng
Song kiếm hợp bích
“đại cán” – Tôn Đức Thắng và Hồ Chí Minh
Trường Chinh
Cũng Song kiếm hợp
bích “đại cán” - Trường Chinh và Hồ Chí Minh. (Tháng 1/1955)
Lê Duẩn cũng “đại
cán”.
Lê Duẩn song kiếm
hợp bích đại cán cùng “bác”
Đại cán của đồng chí
“ăn đu đủ không cần thìa”.
Song kiếm hợp bích
“đại cán” bán nước bằng công hàm 1958.
Còn
rất nhiều lãnh tụ cộng sản khác mà bạn đọc có thể kiểm chứng toàn mặc đồ đại
cán của Trung công. Vậy câu hỏi được đặt ra đâu là nguồn gốc của bộ quần áo đó?
Chúng ta sẽ có câu trả lời ngay dưới đây
Đây là nguồn gốc
Tôn Trung Sơn và vợ
Nguồn
gốc của nó là bộ quốc phục mới, do Chủ tịch lâm thời Trung Hoa Dân quốc Tôn Dật
Tiên (Tôn Trung Sơn) chỉ đạo thiết kế cho nước Trung Hoa mới sau Cách mạng Tân
Hợi. Năm 1923, Quốc dân Đảng cầm quyền chính thức quy định đây là trang phục
bắt buộc đối với viên chức nhà nước Trung Hoa. Từng là ủy viên dự khuyết Ban
Chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng trong thời Quốc - Cộng hợp tác, Mao Trạch
Đông cũng mặc bộ đồ này. Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp thu trang phục này, khi
giành chính quyền từ tay Quốc dân Đảng. Mao Trạch Đông mặc bộ đồ này trong buổi
lễ tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 01/10/1949 và suốt
đời ông không thay đổi cách trang phục. Từ đó, bộ đại cán 4 túi đi vào lịch sử
trang phục thế giới với tên gọi “bộ đồ Mao”.
Mao và Hồ
Mao Trạch Đông
Mao Trạch Đông và
Giang Thanh
Hồ Chí Minh và các
nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Bắc Kinh 1955
Mao và Hồ tiếp tục
điệp khúc “đại cán”.
Còn đây là cụ Ngô Đình Diệm
Trong
khi cộng sản Miền Nam chỉ trích VNCH là bán nước, là không yêu nước. Nhưng nếu
nhìn thấy sự thật cụ Ngô Đình Diệm mặc áo dài khăn đóng chúng ta mới thấy điều
ngược lại. Chính cụ Ngô Đình Diệm mới là người yêu nước, biết tôn trọng giá trị
văn hóa dân tộc. Một người luôn biết nâng niu dân tộc từ việc nhỏ nhất như bộ
lễ phục đã cho thấy cốt cách khác hẳn con người sính “Tàu” và bắt chước “Tàu “
như ông Hồ Chí Minh và quan chức cộng sản.
Cụ Ngô Đình Diệm và
Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ (bên phải). Tất cả đều khăn đóng áo dài
truyền thống.
Tổng thống VNCH Ngô
Đình Diệm mặc áo dài truyền thống trong chuyến viếng thăm Úc 1957
Cụ Ngô Đình Diệm
tiếp Vua Thái Lan
Cụ Ngô Thăm Nha Học
Chánh
Cho
đến thế kỷ 18, việc ăn mặc của người dân được một số các bậc vua chúa lưu tâm
tới. Một sắc chỉ của Chúa Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765) ở Đàng Trong
chứng minh điều đó. Sắc chỉ này cho biết, vào các thời kỳ trước, người Việt Nam
“thường hay bắt chước lối ăn mặc của người phương Bắc, cũng gọi là người
Khách (người Tàu).” Vì lẽ đó, theo sử gia Lê Quý Đôn, “để gìn giữ bản
sắc văn hóa riêng,” Vũ Vương đã ban hành sắc dụ về ăn mặc, “lấy thể chế
áo mũ trong Tam Tài Đồ Hội làm kiểu mà tạo ra chiếc áo dài, cho toàn thể dân
chúng xứ Đàng Trong theo đó thi hành”. (Lê Quý Đôn, Phủ Biên Tạp Lục).
Chính
Lê Quý Đôn khi được vua Lê cử vào trấn nhậm Thuận Hóa năm Bính Thân (1776),
cũng đã hiểu thị cho dân: “Y phục nước nhà xưa nay vốn đã có chế độ. Địa
phương này trước kia đã tuân theo quốc tục... chính trị, phong tục phải thống
nhất. Những ai hiện nay còn mặc y phục theo người Khách thì phải thay đổi theo
quốc tục.” Ở đây “Ăn mặc theo quốc tục” tức là mặc QUỐC PHỤC
vậy.
Một
số Quốc trưởng Việt Nam vẫn coi quốc phục là thể diện quốc gia; các vị ấy hãnh
diện mặc quốc phục khi vi hành trong nước lẫn khi công du nước ngoài, cũng như
trong các lễ nghi đón tiếp các vị quốc khánh đến thăm nước ta.
Hình
ảnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm như đã thấy ở trên mặc quốc phục đón tiếp quốc
vương Thái Lan hay đi kinh lý trong nước là hình ảnh rất đáng trân trọng. Đó
chính là lòng tự hào dân tộc được thể hiện nơi con người của Cụ Ngô.
II. Và đây là lý do!
Từ
khi Việt Nam bắt đầu có y phục riêng, người dân trong nước ăn mặc nghiêm chỉnh
theo phong cách và quốc phục Việt Nam. Quốc phục thoạt đầu chủ yếu là áo dài
thô sơ. Rồi dần dà chiếc áo dài, đặc biệt là áo dài phụ nữ được biến cải mỗi
thời kỳ mỗi khác. Tuy nhiên, phía y phục nam giới, từ đầu thế kỷ 20 đến nay gần
như khôngcó biến đổi nào đáng kể. Là vì nam giới thường sử dụng Âu phục hơn
quốc phục, nên quốc phục cho nam giới lùi dần vào bóng tối. Nhưng trên thực tế
quốc phục không hề mai một vì nhờ có nhiều người Việt Nam nặng lòng với quốc
hồn quốc túy, ra sức bảo tồn quốc phục bằng cách mọi giá. Vậy đâu là lý do mà quốc phục đã
bị Hồ Chí Minh và lãnh đạo cộng sản làm ngơ?
Xin
được trình bày ở dưới đây để thấy Chế Lan Viên đã đúng khi nói “Bác Hồ ta
đó chính là bác Mao”.
Thứ nhất,
Hồ Chí Minh từng tuyên bố như sau: Đại hội lần 2 đảng Cộng sản Đông Dương tại
chiến khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng Cộng sản dưới danh xưng mới
là đảng Lao động ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm
tổng bí thư. Trong đại hội này, Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Về lý luận, đảng
Lao động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin... lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm
kim chỉ nam... Tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin”. (Hồ Chí
Minh toàn tập). Chẳng những thế, cũng trong Đại hội này, Hồ Chí Minh còn
nhiều lần tuyên bố: “Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao
Trạch Đông thì không thể sai được”. (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng sản
Việt Nam qua những biến động trong phong trào Cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63).
Như
vậy việc Hồ Chí Minh có “bắt chước” theo Mao cũng là điều quá dễ
hiểu vì “Mao không thể sai được”.
Thứ hai, “Bài
báo bằng thơ chữ Hán đầu tiên của Bác Hồ” của tác giả Phạm Duy Trưởng.
Bài báo này đã được 1 blogger là một người lính cộng sản post lại các bạn có
thể tham khảo tại link sau:
Trong
đoạn đầu của bài báo có viết “Cứu vong nhật báo" là một tờ báo do Đảng
Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, sáng lập ở
Thượng Hải tháng 8 năm 1937, năm 1938 rời về Quảng Châu, đầu năm 1939 rời về
Quế Lâm vào tháng 10 năm 1940 và trung tuần tháng 12 thì rời Quế Lâm. Nguyễn Ái
Quốc đến Quế Lâm vào tháng 10 năm 1940 và trung tuần tháng 12 thì rời Quế Lâm.
Trong thời gian đó, Người đã viết cho CỨU VONG NHẬT BÁO tám bài sau đây với bút
danh là Bình Sơn...”
Như
vậy ta có thể thấy, ông Hồ với bài báo đầu tiên của mình bằng tiếng Hán đã viết
một bài thơ có tiêu đề "Cứu Trung Quốc là tự cứu mình".
Ngay từ đầu bài chúng ta đã thấy rõ được tâm ý của ông Hồ dành cho Trung cộng.
Tại sao cứu Trung quốc lại là tự cứu mình? Hay chăng ông Hồ tự coi Việt Nam đã
là một phần máu thịt của Trung quốc nên ông ta mới nói vậy. Chúng ta cùng tìm
hiểu thêm về bài thơ. Trong bài báo của tác giả Phạm Duy Trưởng có đoạn:
"Tạp
chí Hàn Nôm số 1 năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh
đã cho đăng bài: "Cứu Trung Quốc
thị cứu tự kỷ" đăng trên tờ "Cứu vong nhật báo" ngày mồng 4
tháng 12 năm 1940. Theo bài viết này, đây là bài thơ chữ Hán sớm nhất của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo. Xin giới thiệu lại cùng bạn đọc nguyên văn bản
chữ Hán, được Phác Can phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ:
Cứu
Trung Quốc là tự cứu mình
Nhật
Bản phát xít ở phương Đông,
Dã
man cuồng bạo lại tàn hung.
Vào
Trung Hoa gây chiến xâm lược,
Nhân
dân Trung Quốc khổ vô cùng.
Người
thì bị giết, nhà bị thiêu,
Núi
đầy xương, đất đầy máu đỏ.
Tàu
bay, bom đạn, tránh làm sao?
Đói
rét, ốm đau, sống thật khó.
Họ
đang đấu tranh rất gian khổ,
Giữ
gìn dân chủ và hòa bình.
Họ
đang cần có người viện trợ,
Họ
đang cần được sự đồng tình.
Giặc
Nhật tấn công cả thế giới,
Là
kẻ thù chung toàn nhân loại.
Mau
đứng lên mà giúp Trung Hoa,
Anh
chị em Việt Nam ta hỡi!
Ra
sức giúp cho người Trung Quốc,
Trung
Việt khác nào môi với răng.
Nhớ
rằng môi hở thì răng buốt,
Cứu
Trung Quốc là tự cứu mình.
Bình
Sơn
4-
12- 1940
Chính
vì “cứu Trung Quốc là tự cứu mình” nên ông Hồ Chí Minh yêu áo đại
cán cũng không có gì là lạ!
Thứ ba,
chúng ta đã thấy Hồ Chí Minh trong các bài thơ và thậm chí cả công văn xin vũ
khí gửi cho Stalin cũng viết hoặc ký tên bằng tiếng Tàu. Đến ngay hoạt động của
đảng cộng sản cũng phải xin ý kiến Tàu thì rõ ràng độ “thần phục” Tàu đã ở mức
cao trào. Và như vậy việc dùng áo “đại cán” cũng không có gì là lạ.
Hồ Chí Minh ký tên
tiếng Tàu
Điện
ngày 18/4/1947 của Ban chấp hành Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Ban chấp hành của
Đảng Cộng sản Trung Quốc v/v đề nghị góp ý kiến về cuộc kháng chiến chống Pháp
và các chính sách trong kháng chiến. (Lưu trữ Bảo tang Hồ Chí Minh)
Điện
ngày 05/12/1948 của Bộ Chính trị TW Đảng Cộng sản Đông Dương gửi TW Đảng Cộng
sản Trung Quốc đề nghị cử 03 cán bộ quân sự sang giúp. (Lưu trữ Bảo tang Hồ
Chí Minh).
Thứ tư,
thậm chí sau này Việt Minh kêu gọi dùng tiếng Hoa và bỏ chữ quốc ngữ thì chuyện
mặc áo Tàu cũng là bình thường mà thôi. Tờ nhật báo “Tiếng Dội” số 462,
năm thứ 3, 1951, Âm lịch 22 tháng Bảy năm Tân Mão, giá bán 1 đồng, của Chủ
nhiệm Trần Chí Thành tự Trần Tấn Quốc, Tòa soạn, Quản lý 216 đường Gia Long Sài
Gòn, có bài mang tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung
Quốc”, cho in nguyên văn một tờ truyền đơn do Trường Chinh ký (Xem cụ thể
tại: Những
sự thật không thể chối bỏ phần 9).
Thậm
chí đến tác giả người Nga là Ruslan Kobachenko nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu
lịch sử Châu Á từng giảng dạy tại đại học Minsk-Nga, ông cũng là đảng viên đảng
cộng sản Liên Xô đã phải thốt lên trong cuốn sách “Liên Xô- Trung Quốc và
Việt Nam, vấn đề chưa được biết” - Cuốn sách này đã được nhà xuất bản
Lịch sử của Liên Bang Nga xuất bản năm 1995, trong cuốn sách của mình ông ta
viết tại trang 298, tạm dịch: “Trung quốc có lợi hơn cả trong cuộc nội chiến
ở Việt Nam. Họ vừa có lợi trong việc ăn cắp kỹ thuật sản xuất pháo, xe tăng của
chúng ta khi những chuyến hàng gửi đến Hà Nội luôn bị giữ lại Trung Quốc hàng
năm trời trước khi đến Việt Nam. Ngoài ra, sự kiệt quệ do nội chiến ở Việt Nam
cũng chính là điều mà Trung Quốc mong muốn. Đồng Chí Stalin nghĩ Hồ Chí Minh
biết điều này nhưng ông ta dường như chỉ nghe theo lời của Mao Trạch Đông”.
Thứ 5,
Hồ Chí Minh còn là một đảng viên của đảng cộng sản Trung quốc không phải là một
mà những hai lần. Trên website của sở văn hóa thông tin tỉnh Nghệ An có tên:
vanhoanghean.vn. viết như sau: “...ở bài viết này (báo Nhân Dân, 1/7/1961,
số 2.658), Hồ Chủ tịch cho biết Người đã hai lần đứng trong hàng ngũ Đảng
CSTQ. Một lần trong những năm 1924-1927, với chức danh là “tuyên truyền đối
ngoại”, viết bài về Đảng CSTQ cho một bài báo bằng chữ Anh và, một lần, vừa
là binh nhì trong Bát lộ quân, vừa là Bí thư chi bộ của một đơn vị ở Hành Dương...
(HCM, TT, T.10, tr. 365-368. NXB CTQG, H. 2002)”
Thật
không quá khó hiểu khi một đảng viên cộng sản Tàu mặc áo của chủ tịch Mao!
Và
cho đến hôm nay các lãnh đạo cộng sản vẫn còn “thần phục” tinh thần - “bên
kia giới là nhà” của Hồ Chí Minh và cộng sản đã dìu dắt:
“Đồng phục”
Cờ chư hầu 6 sao.
III. Kết luận:
Hồ
Chí Minh có là người Tàu hay không chúng ta cần đợi một thời gian nữa để có
bằng chứng cụ thể. Nhưng những gì Hồ Chí Minh làm thể hiện bản chất quy phục và
quỵ lụy Tầu đến mức tệ hại. Không chỉ có bán Việt Nam cho Tầu mà còn thể hiện
thái độ coi thường thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Thông qua cách ăn
mặc nhất là đối với một người lãnh đạo người ta có thể thấy họ có yêu dân tộc
mình hay không. Có lẽ chưa cần bằng chứng xác thực 100% nhưng đã có nhiều điều
cho thấy Hồ Chí Minh có thể là một chú Khách luôn luôn hướng về quê cha đất tổ
của mình.
Dù
là ai thì Hồ Chí Minh và đảng cộng sản cũng đã thể hiện họ không phải là người
yêu nước và có lòng tự hào dân tộc. Chính vì vậy đảng công sản không xứng đáng
được tiếp tục đè đầu cưỡi cổ nhân dân Việt Nam nữa. Những trang phục, lá cờ của
Tàu phải trả lại cho Tàu vì nhân dân Việt Nam không bao giờ chấp nhận nó cũng
như không bao giờ chấp nhận một đảng tay sai như đảng cộng sản Việt Nam.
28/7/2013
--------------------------------------------
Những
sự thật cần phải biết
No comments:
Post a Comment