Những sự thật cần phải biết (phần 7): Lê Duẩn và sự tàn
ác với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa.
Quá
khứ đã trôi qua gần 40 năm , tuy nhiên quá khứ đó vẫn là nỗi đau với nhân dân
Việt Nam nói chung và quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa nói riêng. Vết
thương không thể lành lặn nếu đảng cộng sản vẫn tiếp tục xúc phạm danh dự của
quân dân Việt Nam Cộng Hòa và đàn áp nhân dân Việt Nam. Tôi viết bài này chỉ
xin góp một tiếng nói chân thật của lịch sử nhằm phanh phui tội ác của Lê Duẩn
và cộng sản Việt Nam, để như một nén hương với người đã khuất trong lao tù cộng
sản hay tri ân những ai đã vì tự do mà phải chịu đọa đày trong ngục tù cộng
sản.
Như
trong “Những sự thật cần phải biết 6”, bài Lê Duẩn: Kẻ
đồng mưu với Hồ Chí Minh tàn sát nhân dân Mậu Thân 1968, tôi đã trình
bày với bạn đọc tội ác của Lê Duẩn trong việc đồng mưu cùng Hồ Chí Minh tàn sát
hàng nghìn người dân Huế vô tội tết mậu thân 68. Trong khuôn khổ bài này, tôi
xin trình bày về tội ác tiếp theo của Lê Duẩn trong việc trả thù tàn bạo đối
với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1975. Đây là một trong những
tội ác không thể bỏ qua vì nó là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại Đạo
Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế
(The International Criminal Court, viết tắt là ICC).
Trên
thực tế , những ai là quân dân, cán chính Việt Nam cộng hòa sau khi bị bị cộng
sản đưa vào tù đều thấy điều này. Ngoài ra, gia đình họ bị cộng sản bức hại đi
lên vùng kinh tế mới, con em bị ghi lý lịch xấu, nhà của bị tịch thu là những
nỗi thống khổ của những quân dân cán chính VNCH. Trong khuôn khổ bài viết này,
tội ác của Lê Duẩn và đảng cộng sản đối với quân dân, cán chính Việt Nam cộng
hòa trong lao tù của cộng sản.
I. Cả nước Việt Nam là một trại tù khổng lồ :
Thứ
nhất,
ngày Thứ Hai, 23/7/2007, Website của The Wall Street Journal, nhà báo James
Taranto đã trích dẫn cuộc điều tra quy mô của nhật báo Orange County Register
được phổ biến trong năm 2001 về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và đã kết luận
rằng: "Ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản đã đưa một triệu quân dân
cán chính VNCH vào tù vô thời hạn - dưới cái nguỵ danh học tập cải tạo – trong
ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam kể cả
những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt. Theo Bộ Ngoại Giao Hoa
Kỳ, đại đa số những người này đã bị giam cầm từ 3 tới 10 năm và có một số người
đã bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung bình là bẩy năm tù cho mỗi
người, số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm.”
Đây
là một tội ác hình sự mang tính lịch sử của đảng cộng sản cộng sản và những
người đứng đầu đảng cộng sản. Nó xứng đáng được được đưa vào cáo trạng mà chúng
tôi đang thực hiện nhằm đưa tội ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản ra trước
ánh sáng công lý.
Cũng
theo cuộc điều tra nói trên cho biết: “Cứ mỗi ba gia đình tại Miền Nam, có
một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể
trên, đã có 165,000 người chết vì bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao
động kiệt sức, chết vì bệnh không được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay,
hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn còn bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi,
không trả lại cho gia đình họ. Hiện nay chỉ có Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi
các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích
người, một tội ác chống loài người đã và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm
nay mà thủ phạm là Lê Duẩn…”.
Thứ
hai,
trong tập tài liệu ghi bí số TN/QP-14 được lưu chiểu ngày 14/02/1977 tại cục
lưu trữ Bộ Quốc Phòng Cộng sản ghi rõ như sau tại trang số 6: "Tổng số
tù nhân tham gia học tập cải tạo để trở thành con người mới sau khi chế độ Sài
Gòn đầu hàng là 1.321.506 người. Trừ những số trốn trại, bị chết trong lúc cải
tạo và già yếu trả về với gia đình , bộ quốc phòng giao lại cho bộ nội vụ quản
lý là 1.236.569 người".
Qua
tài liệu nói trên của nhà nước cộng sản nói lên điều gì? Đó là họ đã coi những
quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa là những “Tù nhân”. Trên thực tế, họ không
phải là tù nhân vì theo như cộng sản tuyên truyền họ chỉ đi học tập chủ trương
đường lối của “cách mạng”. Nhưng chính tài liệu của cộng sản đã coi họ là tù
nhân.
Ngoài
ra con số người mà đảng cộng sản cho biết chính là con số nói lên thực tế về
trại tù khổng lồ mà cộng sản cùng Lê Duẩn bày ra nhằm trả thù quân dân cán
chính VNCH.
Thứ
ba,
theo tài liệu của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose ghi nhận số lượng tù cải
tạo thực sự đều là tù chính trị như sau: “Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân
nhân gồm 1/10 cấp Tá và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy là 80.000, còn lại là
hạ sỹ quan và binh sĩ . Binh sĩ VNCH bị bắt đi cải tạo sau ngày 30 tháng 4,
1975.AFP/Getty Images – Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112; bị tù
cải tạo: 32 vị, 80 tướng lãnh di tản và 1 số nhỏ không bị bắt giam. – Ðại tá có
600, bị tù 366. – Trung tá có 2.500, bị tù 1.700. – Thiếu tá có 6.500, bị tù
5.500. – Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000. Trong số này bao gồm cả nữ quân nhân
cũng như thành viên đảng phái và các cấp chính quyền. Ðây là con số ghi nhận
được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, không có tài liệu của các trại giam
phía cộng sản để đối chiếu; và không có con số chính xác tù cải tạo bị chết
trong khi giam cầm”.
Như
vậy, mặc dù do thất lạc khi rút bỏ Miền Nam, cộng với những thống kê những
người chết do cộng sản đạo đày trong tù thì những con số mà Viện Bảo tàng cũng
cho thấy cộng sản đã biến cả nước Việt Nam thành một địa ngục tù ngục trong
chính sách trả thù man rợ của mình đối với những ai liên quan đến VNCH.
Thứ
tư,
để thừa nhận thêm về chính sách bỏ tù quân dân cán chính VNCH, cũng cần phải
nhắc lại đảng cộng sản Việt Nam chủ trương theo chủ nghĩa cộng sản độc tài của
Liên Xô và Trung Cộng. Hồ Chí Minh khi đem chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam chủ
trương làm tay sai cho quốc tế thứ 3 (Xin xem thêm “Những sự thật không thể
chối bỏ" phần 4,10,11,12) và làm con tốt thí trong tay sai Liên Xô.
Những tư tưởng của Lê Nin đã được Hồ Chí Minh truyền thụ cho đàn em của mình
trong việc trả thù những ai bất đồng chính kiến, trong trường hợp này là quân
dân quán chính VNCH. Vì vậy nhìn lại Việt Nam sau năm 1975 như một trại tù
khổng lồ của cộng sản không có gì là điều lạ lùng . Hãy đọc cuốn “Lê Nin và
Xã hội chủ nghĩa" xuất bản tại Liên Xô dày 820 trang, tại trang 233 có
viết:
"Chiếm
được một tỉnh, giải phóng được một nước thì dễ nhưng giữ yên được đất nước, địa
phương ấy mới là khó. Muốn vậy sau khi chiếm được lãnh thổ, trước hết phải tập
trung giam giữ lâu dài bọn phản động, thành phần làm việc cho chế độ cũ, chỉ
khi nào ổn định được xã hội, nắm vững tình hình an ninh nội chính mới thả chúng
về”.
Và
cũng là sư phụ của Hồ Chí Minh cũng như Lê Duẩn sau này không quên nói thêm: "Bọn
này gồm những tên đầu đường xó chợ, đói khát rách rưới, Vô sản lưu manh rất
nguy hiểm, chúng là kẻ thù số một của chuyên chính vô sản vì dễ bị bọn phản
động mua chuộc, chúng cần bị giam giữ, loại trừ”(Trích cuốn “Lê Nin
tuyển tập và Bản tuyên ngôn đảng cộng sản” có nói về Vô sản lưu manh.).
Qua
đây chúng ta có thể thấy, việc cộng sản Việt Nam học tập tư tưởng của Lê Nin
nhằm trả thù man rợ quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa cũng là điều hết sức
thường tình đối với bản chất của cộng sản.
Thứ
năm,
trong cuốn sách có tên “Đối nghịch” của tác giả J. Leroy - một nhà hoạt
động xã hội người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp (giới thiệu ở
bài “Những
sự thật không thể chối bỏ - phần 14 - Ai làm cho Huế đau thương?”). Cuốn
sách của ông đi sâu phân tích về tính chất đối lập của đảng cộng sản và các
đảng phái khác và dẫn chứng về cuộc chiến Việt nam như là một sự đối nghịch
đỉnh điểm về ý thức hệ. Trong trang 202 của cuốn sách in năm 2000 tại Pháp có
nội dung trích như sau: “Sau ngày 30/4/1975, tư tưởng của Mác, Lê Nin đã
hoàn toàn làm chủ cả Việt Nam. Hàng triệu người theo chế độ cũ do người Mỹ giúp
đỡ đã phải vào tù theo lệnh cải tạo của nhà nước Việt Nam”.
Cuốn
sách này cho thấy người cộng sản Pháp đã phải công nhận có hàng triệu người
quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa bị cộng sản đẩy vào tù để phục vụ cho mục
đích trả thù những ai không theo cộng sản độc tài.
II. Trả thù man rợ :
Từ
sau năm 1975 đến nay, nhà nước cộng sản Việt Nam, đã thi hành chính sách bắt
những người là quân dân cán chính đi cải tại các trại tập trung. Thực chất là
đi tù. Khi ra khỏi trại thành kẻ tứ cố vô thân. Rồi chính sách cải tạo công
thương nghiệp làm cho nhiều người điêu đứng phải vượt biên... Rồi trấn áp, bắt
bớ người vượt biên. Một số địa phương ven biển còn lợi dụng “bắt vượt biên” để
trấn vàng, trấn của… Những thương phế binh VNCH thì bị đẩy ra lề đường.
Để
nói lên thực tế này, ngay một tờ báo cộng sản đã phải thừa nhận sự thật này .
Xin trích dẫn đến bạn đọc đoạn viết trên Tuần Vietnamnet: "Anh tên Ngô
Công Vò, quê xã Thủy Phù, Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế, đi lính cho chế độ Sài
Gòn năm 1970… So với nhiều anh em lính chế độ cũ, tôi còn may mắn hơn nhiều.
Nhưng cuộc sống vẫn vất vả lắm. Anh em thương binh phía Bắc còn có chế độ, chứ
chúng tôi chẳng có gì, làm việc quần quật mà chẳng đủ nuôi vợ con. Công việc
của gia đình anh Vò chủ yếu làm ruộng, và ai thuê gì làm nấy. Công việc khá
thường xuyên của anh là lấy đất thải san ủi nền nhà, và cả tháo gỡ những quả
bom mìn còn sót lại trong vùng đem bán. Công việc vất vả, mạo hiểm đủ để tùng
tiệm cuộc sống”. (Links của bài báo : http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-04-27-hoa-hop-dan-toc-va-su-hoi-sinh-tu-noi-dau).
Còn
đối với những người bị giam trong tù thì ra sao? Xin điểm lại một số chứng cứ
để thấy cộng sản đã đối xử với quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa như thế
nào.
Trên
thực tế,quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa được thông báo: "Công chức
trung ương từ Chánh sở, địa phương từ trưởng ty, phó quận cho tới Tổng thống;
sĩ quan cảnh sát từ thiếu tá trở lên; các thành phần đảng phái, nhân viên tình
báo ra trình diện học tập tại trường Gia Long…, mang theo quần áo, lương thực..
đủ dùng trong một tháng”.
Khoảng
hơn một năm sau ngày nhập trại, bộ nội vụ bèn gom tù lại, ra Chính sách 12
điểm, tất cả học viên thành tù hết, án phạt ba năm… do Công an quản lý, đối xử
hà khắc, bắt lao động cực nhọc, giai đoạn này cho ăn đói, mỗi bữa chỉ có vài củ
khoai và một hai bát bo bo… rồi nhiều người bị đẩy ra những trại tù ở miền Bắc
như: Hoàng Liên Sơn, Cổng Trời, Thanh Hóa, Hà Nam Ninh…
Những
người bị giam ở trong nam thì còn đỡ khổ vì có gia đình thăm nuôi vả lại miền
nam khá hơn miền Bắc, những người bị đưa ra Bắc vô cùng thê thảm, đói khát,
lạnh lẽo, bệnh tật, làm việc quá sức.. nhiều người chết bỏ xác miền Bắc hoặc
hóa ra thân tàn ma dại. Sĩ quan cấp thiếu úy, những người quá trình nhẹ hoặc có
thân nhân là cán bộ bảo lãnh phần nhiều được về trong vòng ba năm, cấp trung úy
hoặc ty sở trưởng, những người có liên hệ an ninh tình báo thường là được về
sau 5 hay 6 năm... Trong thời gian đó, cộng sản hành hạ quân dân cán chính VNCH
hết sức tàn tệ:
Thứ
nhất,
sau ngày 30/04/75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu vì
đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng cộng sản đã nghĩ ra một giải
pháp thâm độc và tránh được sự lên án của Quốc tế đó là giam cầm và hành hạ
quân dân cán chính VNCH. Quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã được khuyến dụ
trình diện để “học tập” ngắn hạn. Gọi là “tìm hiểu đường lối, chính sách của
nhà nước và để gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa”. Chính quyền
mới hứa là thời gian học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục
vụ đất nước.
Nhưng
thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba năm. Rất nhiều
người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không ít.
Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở về
đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy.
Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng mình.
“Rồi
mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi có bổn
phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào tâm
khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!”, (Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục, trang
152.).
Người
tù bất khuất Tạ Tỵ đã mô tả cảnh đói khát trong nhà tù cộng sản hết sức kinh
khủng vì có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù.
Nên bất cứ tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này.
“Đã
hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi ngày 8
tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì luộc, mỗi
cái khoảng 200 gram và một nửa chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy chúng tôi
chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và chất đạm
nào! Do đó, ai nấy đều gầy rộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo giấy tờ chúng
tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực tế chúng tôi
chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột”, (Đáy Địa Ngục -Tạ Tỵ trang 378- 379.).
Thứ
hai,
Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ là một trong những người đã chứng kiến cảnh tượng đó. Và
ông đã mô tả chân thực cuộc sống của nhà tù cộng sản giành cho quân dân cán
chính VNCH. Chật chội, ngột ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi bệnh
riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước, kéo
một lúc đã cạn nước, nhiều khi có chuột bọ chết thối trong giếng. Ăn uống vào
là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất…
“Cả
trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ buổi
sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó, mệt
mỏi trông thật thảm hại... Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần đi
cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xa. Để
tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra hố
cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước,
ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ
tetracycline do Lan cho. Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm
mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường
thì phải chờ lâu tới ba tuần”, (Tầng Ðầu Địa Ngục - Linh Mục (LM)
Nguyễn Hữu Lễ.).
Và
cùng đó là cảnh thiếu thốn: “Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác!
Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con
mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong
buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may
mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ
Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học”, (Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn Hữu
Lễ.).
Cùng
đó là những hành động bị hành hạ cơ thể:
“Tùy
theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà tù nhân
bị “đại ca” ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù. Nếu chỉ để cảnh cáo
và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử
dụng “chưởng” tức là đánh bằng hòn đá bọc trong cái vớ hoặc “bẻ ngà” là dùng đá
cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặng hơn thì “lấy cấp pha” tức
là móc đôi mắt, hoặc “ xin cặp nạng” nghĩa là cắt gân gót chân. Trường hợp
nghiêm trọng thì đối phương sẽ được “cất” có nghĩa là giết chết”, (Tầng Ðầu Ðịa Ngục
- LM Nguyễn hữu Lễ.)
Thứ
ba,
cũng cần nhắc qua cuốn Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh để thấy sự tàn tệ
của nhà tù cộng sản đối với quân dân cán chính VNCH như thế nào. Hình ảnh cánh
binh cộng sản bắt phạt tù nhân “ngụy” được mô tả như sau: “Nói đến sùi bọt
mép mà thấy nét mặt của mười thằng “ngụy” vẫn trơ thổ địa ra, thằng quản giáo
cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống! Bọn tù chỉ liếc nhìn
nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thua. Hắn móc súng bắn đến
đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt êm ái quỳ. Thằng
quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đi...”, (Đại Học Máu
- Hà Thúc Sinh, trang 116).
Tác
giả Hà Thúc Sinh cũng không quên mô tả tình trạng thiếu thuốc men và y tế của
cộng sản đối xử với quân dân cán chính VNCH: "Mặt đứa nào đứa nấy trông
như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm vì bị phù do thiếu chất, cứ như
những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo
gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng
trầm kha...”, (Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, tr. 251.).
Thứ
tư,
cũng có rất nhiều tác giả khác đã từng ngồi tù cộng sản bằng mỹ từ “học tập cải
tạo” đã viết lên những khốn khổ trong tù cộng sản mà trong khuôn khổ bài này
tôi không thể kể xiết. Xin điểm lại một số điểm chính để bạn đọc thấy rõ bản
chất tàn bạo của cộng sản.
Ông
Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức cao cấp trong chính quyền VNCH. Tốt
nghiệp khóa 1 Trừ Bị Nam Định và khoá 51-53 trường Saint Cyr (Pháp), đỗ cử nhân
luật và cao học tiến sĩ kinh tế Đại học Luật khoa Sài Gòn (1963), thẩm phán Tòa
Án Quân Sự, Đại tá Chánh thẩm Tòa Án Đặc Biệt (1966-1968), Cố vấn ngoại giao
tại Paris (1968-1974), Nha Thông Tin Báo Chí Bộ Ngoại Giao (1974-1975), Sau năm
1975, ông bị đưa đi tù cải tạo (1975-1985), rồi sau đó sang định cư tại
Maryland, Hoa Kỳ từ năm 1990. Ông từng là Chủ tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính
Trị vùng Hoa Thịnh Đốn, nguyên Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính
Trị, nguyên Chủ Tịch Cộng Đồng VN vùng Hoa Thịnh Đốn (1996-1998). Ông còn viết
nhiều bài khảo luận về kinh tế, chính trị được phổ biến rộng rãi có viết:
"Tại
trại Thanh Cẩm, chế độ lao động còn khắt khe và nặng nhọc hơn ở trại Quảng
Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công an gốc dân tộc Mường, chúng tôi phải đi
rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến vừa đi vừa về vào khoảng 3 cây số. Mỗi
ngày phải đi ba chuyến mà chỉ đươc ăn có 4 chén cơm với vài cọng rau muống luộc
thì sức nào chiụ nổi. Nếu đội nào không đi xe cát thì phải xe đá hoặc vào rừng
đẵn luồng vác về cho cán bộ làm nhà. Những người lao động ở trại cưa, trại mộc
cũng không sung sướng gì hơn. Cả ngày quần nhau với những cây gỗ lớn, cưa sẻ
liên hồi hoặc đục đẽo luôn tay thi lấy năng lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất trồng
khoai ngô mới là mệt vì đất núi bạt ngàn mà nhân công thì thưa thớt. Ấy là chưa
kể nhũng vụ gánh phân đi bón nặng gẫy sương sườn và chốc lở sương vai.Sức người
có hạn còn nhu cầu của trại thì mỗi ngày môt tăng thêm. Bên cạnh những cái chết
vì tại nạn lao động như bị đá núi đè, lợp nhà té xuống đất hay bị cây luồng đâm
thủng bụng, dần dần người ta thấy xuất hiện những cái chết vì đói, vì thiểu
lực. Sau hơn ba năm bị lưu đầy ra Bắc anh em tù nhân chôn nhau, vì chết đói, đã
chật cả một phần đồi sắn. Có một thời gian, trong tâm tư và trước mắt mọi người
cái chết đã trở thành quen thuộc, không gây sợ hãi và cũng không gây súc động.
Tù nhân chờ đợi Thần Chết đến thăm như chờ đợi một sự giải thoát”.
(Links:
Tác
giả Nguyễn Chí Thiệp trong cuốn “trại kiên giam “ nổi tiếng của mình thì viết:
"Tiêu chuẩn ngừoi phạm kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với
nước muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp
nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ. Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho
thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn,
vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm,
giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống,
nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại
tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn
trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó”.
(Nguyễn Chí Thiện - Trại Tù Kiên Giam, trang 35).
Hoặc:
“Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt
giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở
hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình
căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải
dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới
chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp
thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng
húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh”, (Trại Tù Kiên Giam - Nguyễn Chí
Thiện, tr 473).
Thứ
năm,
trên thực tế còn rất nhiều bằng chứng từ chính những người bị cộng sản trả thù
man rợ. Nhưng còn phe cộng sản nói gì về điều này? Xin giới thiệu cuốn sách “365
ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại
Việt Nam đã được giải mật năm 2008 (Đã giới thiệu ở “Những sự thật cần phải
biết” phần 5) cho biết tại trang 75 như sau: "Những hình phạt của
đảng cộng sản Việt Nam giành cho tù nhân chế độ Sài Gòn đã cho thấy những người
anh em của chúng ta đã không quên phương pháp mà Xtalin áp dụng...”.
Cuốn
sách này còn nói thêm tại trang 82: "Trong một điều kiện khó khăn và kỷ
luật hà khắc, chính quyền mới tại nước Việt Nam thống nhất đã thanh lọc rất tốt
tư tưởng của những người đi theo Mỹ…”.
Như
vậy, ở đây ta có thể thấy, cuốn sách đã chỉ rõ cộng sản Việt Nam học tập phương
pháp tàn bạo của kẻ giết người hàng loạt đó Xtalin. Và cuốn sách nhắc đến cum
từ “Kỷ luật hà khắc” cho thấy bản chất bạo tàn của cộng sản trong đó có cộng
sản Việt Nam áp dụng đối với quân dân cán chính VNCH.
III. Lê Duẩn là đầu xỏ :
Việc
trả thù quân dân cán chính VNCH do chủ trương của đảng cộng sản gây ra. Những
người trực tiếp thực hiện đó là Võ Văn Kiệt, Trần Văn Trà, Cao Đăng Chiếm…
Nhưng chủ trương và phương án này chính là do Lê Duẩn cầm đầu.
Thứ
nhất,
Lê Duẩn chính là một người tuy thích thân Liên Xô hơn Tầu nhưng Duẩn cũng học
tập chính sách của Hồ Chí Minh trong cải cách ruộng đất. Và chính đảng cộng sản
Việt Nam đã thừa nhận điều này: "Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn là “người học
trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo lỗi lạc của Đảng, người
cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tiến
lên chủ nghĩa xã hội…” (Trích: Thông cáo đặc biệt của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, ngày 11/7/1986).
Và
tại thời điểm sau năm 1975, Duẩn với cương vị đứng đầu của nhà nước cũng như
đảng cộng sản (Lúc đó có tên là đảng lao động) chính là kẻ đã chỉ đạo và quyết
định việc đối xử tàn tệ với quân dân cán chính VNCH.Là kẻ đứng đầu đảng và nhà
nước, đương nhiên Duẩn biết điều này và không thể đổ lỗi cho bất kỳ ai: "Ngày
30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, nước Việt Nam thống nhất. Ngày
16 tháng 5 năm 1975, Bí thư thứ Nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn đã trực
tiếp vào miền Nam nắm tình hình, gồm cả tình hình kinh tế.”
Và:
"Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu lại và
Ban Chấp hành Trung ương vào Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất Ban Chấp
hành Trung ương Đảng.Tại Đại hội lần thứ IV Đảng (năm 1976) và lần thứ V của
Đảng (năm 1982), đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung
ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng".(Trích
bài phát biểu của Nông Đức Mạnh: Báo Điện tử đảng cộng sản Việt Nam 6/4/2007 )
Thứ
hai,
trong cuốn “Lê Duẩn, Nội dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam”, xuất bản lần 1 tại trang 482 có viết: "Sức mạnh vô địch của
cách mạng Việt Nam được tích luỹ qua gần nửa thế kỷ đấu tranh dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, kết tinh cả truyền thống chiến đấu và
tài thao lược của tổ tiên ta. Bằng ý chí của chúng ta, những kẻ một thời lầm
đường lạc lối theo Mỹ - Ngụy đã được lao động cải tạo để trở thành những công
dân có ích cho xã hội mới..”.
Bỏ
qua những từ ngữ huyênh hoang quen thuộc của cộng sản để tự lăng xê chính mình.
Bỏ qua những mỹ từ “Cải tạo, lao động” thì chúng ta thấy Lê Duẩn đã rất tâm đắc
với chủ trương của mình trong việc hành hạ những người là quân dân cán chính
VNCH.
Thứ
ba,
cũng vẫn cuốn sách: “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô
chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đã giới thiệu ở phần trên cũng viết tại
trang 83: "Đồng Chí Tổng bí thư đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn cùng ban
chấp hành trung ương đảng đã tiến hành ổn định nhanh chóng tình hình sau ngày
30/4/1975. Chính sách kỷ luật hà khắc mà nhà nước áp đặt cho những người lính
chế độ Sài Gòn đã được chính đồng chí Tổng bí Thư Lê Duẩn đề ra trong một cuộc
họp của bộ chính trị…”.
Qua
đây có thể thấy, đảng cộng sản mà đứng đầu là Lê Duẩn đã vạch ra kế hoạch “hà
khắc” đối với quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa. Những hành động đầy tội ác
mà tôi đã nêu ra ở phần hai chính là do Lê Duẩn – một đồ tể tay chân của Hồ Chí
Minh gây ra.
Thứ
tư, ngày
1-11-1978, Lê Duẩn và Phạm Văn Ðồng dẫn đầu một phái đoàn đảng và chính phủ
sang Mạc Tư Khoa để cùng Brezhnev ký bản hiệp ước “hợp tác và hữu nghị”, theo
đó hai nước sẽ liên minh với nhau cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Ðiều 6
của hiệp ước này nói rõ là nếu một trong hai nước bị tấn công, cả hai nước sẽ
dùng những biện pháp thích hợp đối phó. Từ đó, Liên Xô đã hết lòng viện trợ cho
Việt Nam. Số tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ Mỹ kim. Bù lại, Việt Nam
sẽ để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể Ðà Nẵng làm đầu cầu quân
sự để kiềm chế Trung Hoa và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ trong vùng
Thái Bình Dương. Trong cuộc găp với Brezhnev, ngoài báo cáo tình hính quan hệ
với Trung cộng, CamPuchia thì Lê Duẩn đã báo cáo: “Cơ bản tình hình trong
nước chúng tôi đã ổn định do tôi và các đồng chí trong bộ chính trị không để
cho ngụy quân, ngụy quyền có thể nổi lên bằng việc áp dụng mô hình nhà tù như
thời đồng chí Xtalin. Chúng tôi chỉ lo lắng là Campuchia đang leo thang khủng
bố…”( Trích: "Văn thư lưu trữ của đảng cộng sản Liên Xô trang
422”).
Vậy
không ai khác mà chính Lê Duẩn cùng cộng sản Việt Nam đã đẩy quân dân cán chính
VNCH vào lao tù khắc nghiệt.
IV. Kết Luận :
Qua
những hành động trả thù man rợ quân dân cán chính Việt Nam cộng hòa của cộng
sản nói chung và Lê Duẩn nói riêng cho thấy bản chất của cộng sản là không thay
đổi qua các thê hệ từ sau Hồ Chí Minh. Tội ác đó vi phạm công ước về tù binh
chiến tranh cũng như luật nhân đạo. Sau nhiều chục năm bị bưng bít bởi chế độ
cộng sản toàn trị, đã đến lúc chúng ta cần cho mọi người, đặc biệt là thế hệ
trẻ thấy được bản chất tàn bạo của cộng sản.
Trong
quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại rơi
vào thảm cảnh như ngày hôm nay do bàn tay độc ác của cộng sản. Chúng ta cần
phải đoàn kết lại để lên án và lật đổ chế độ bán nước hại dân cộng sản Việt
Nam. Xin trả lại sự thật lịch sử và danh dự cho những người quân dân cán chính
VNCH để tôn vinh họ - Những người anh hùng không chịu khuất phục lao tù cộng
sản.
6/6/2013
------------------------------------
NHỮNG
SỰ THẬT CẦN PHẢI BIẾT
Đặng Chí Hùng
BLOG BỐN
PHƯƠNG
NHỮNG
SỰ THẬT CẦN PHẢI BIẾT [4] : “THỐNG NHẤT” – XIN ĐỪNG XẢO NGỘN ! (Đặng Chí Hùng –
Danlambao) 12-12-2012
DÂN
LÀM BÁO
Đặng Chí Hùng 26-9-2012
Đặng Chí Hùng 17-10-2012
Đặng Chí Hùng 27-11-2012
Đặng Chí Hùng 12-12-2012
Đặng Chí Hùng (Danlambao) 27-4-2013
No comments:
Post a Comment