Stuart Grudgings
Reuteurs
Reuteurs
L.V. chuyển ngữ
Thứ Sáu, 24/08/2012
Từ những làng quê sâu đến những thành phố
đặc kín lưu thông, thật khó mà không biết đến Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Nó
xây dựng chung cư, mở một ngân hàng, điều khiển một công ty môi giới chứng
khoán, cung cấp điện cho hàng triệu hộ dân và có hơn 100 nghìn nhân viên.
Hôm nay, nhà cung cấp điện lẻ duy nhất của
Việt Nam, thường được biết với tên EVN, có vẻ như đang mở rộng quá sức, theo
một quan chức cao cấp thông thạo trong ngành. Nó là doanh nghiệp nhà nước khổng
lồ mới nhất đang đối diện với sự chú ý trước những cơn bùng nổ nợ làm lung lay
lòng tin của các nhà đầu tư và tiêu biểu cho sự tuột giốc của một quốc gia từng
được xem là ngôi sao kinh tế tương lai của Đông nam Á.
Một số người e rằng khó khăn nợ nần tại EVN
có thể lớn hơn cả của tập đoàn đóng tàu Vinashin, với số nợ 600 triệu Mỹ kim đã
làm tổn thương uy tín của Việt Nam trước những nhà đầu tư nước ngoài, mặc dù
công ty độc quyền này rất ít bị quốc tế lưu tâm.
“Tôi có thể nói rằng món nợ của nó còn tồi
tệ hơn Vinashin rất nhiều, có thể lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng,” vị quan
chức ẩn danh trong ngành với hiểu biết tường tận về những món nợ của EVN cho
biết.
Tuần này, vụ bắt giữ nhà tài phiệt nổi
tiếng Nguyễn Đức Kiên, nhà sáng lập viên đa triệu phú của ngân hàng có giá trị
cao thứ tư của Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần châu Á (ACB), càng làm
tăng thêm nỗi lo về tình trạnh tài chính bất ổn tại quốc gia do Cộng sản cầm
quyền với dân số 90 triệu dân này.
Việc bắt giữ ông Kiên càng thổi bùng những
lo lắng về một lĩnh vực đang bị ràng buộc vì những liên hệ với những doanh
nghiệp nhà nước với nợ nần chất chồng, bao gồm nhiều tập đoàn như EVN, vốn đã
vượt xa khỏi những kinh doanh cốt lõi khi những nhà lãnh đạo chính phủ tìm cách
xây đựng những đại tập đoàn tầm cỡ thế giới theo khuôn khổ “chaebol” của Hàn
Quốc.
Ngân hàng trung ương bắt buộc phải công bố
một trấn an hiếm hoi rằng các ngân khoản trong ACB thì an toàn trong khi những
người ký gửi đứng xếp hàng để rút tiền, trong khi đó chỉ số chứng khoán chính
của Việt Nam đã giảm 9% trong tuần này.
Việc Vinashin gần như sụp đổ vào năm 2010
và những khó khăn nặng nề của công ty hàng hải Vinalines trong năm nay, với
tổng số nợ là 6,5 tỉ Mỹ kim, đã khiến cho chính quyền hứa sẽ tăng gấp đôi số
lượng cải cách các doanh nghiệp nhà nước, vốn chiếm một phần ba nền kinh tế và lấn
lướt thành phần đầu tư tư nhân.
Nhưng những đề xuất mới nhất được đưa ra
vào tháng Bảy dường như đã thất bại trong việc đối phó với tình trạng phe cánh
và những ưu tiên lẫn lộn, khiến cho 100 doanh nghiệp nhà nước lớn nhất lôi kéo
nợ nần đến mức 50 tỉ Mỹ kim - tương đương với gần nửa sản lượng kinh tế hàng
năm của Việt Nam trong năm 2010.
Những ngân hàng và chuyên gia trong ngành
nói những khó khăn này vượt xa hơn cả Vinashin và Vinalines.
“Họ chỉ là phần nổi của tảng băng,” David
Koh, một chuyên gia về Việt Nam tại Học Viện Nghiên cứu Đông nam Á ở Singapore
cho biết.
Ví dụ như thất bại của EVN, có thể gây ảnh
hưởng rất lớn đến nền kinh tế chung cả nước vì phải đình chỉ nguồn cung cấp
năng lượng giá rẻ, vốn là huyết mạch của lĩnh vực sản xuất.
Một báo cáo trong tờ Sài Gòn Times vào
tháng Năm đã trích dẫn tài liệu của cơ quan Kiểm toán Nhà nước rằng EVN đã mang
số nợ 240 nghìn tỉ đồng (11,5 tỉ Mỹ kim) vào cuối năm 2010, gần gấp ba số nợ
của Vinashin vào cùng thời điểm.
Báo Tuổi Trẻ tường thuật rằng vào tháng
Mười hai EVN đã thua lỗ từ sản xuất ở mức 8,4 nghìn tỉ đồng, gấp 12 lần con số
EVN tự báo cáo, cũng bản báo cáo trên cho biết.
Những dữ kiện trên và những con số không
đẹp đẽ mấy về các doanh nghiệp nhà nước đã không được đưa vào bảng báo cáo
chính thức mà Kiểm toán Nhà nước gửi cho giới báo chí hôm tháng Bảy.
Các quan chức EVN đã không hội đáp những
cuộc gọi phỏng vấn của Reuters.
Tình trạng sức khoẻ tài chính thật sự của
EVN, công ty lớn hàng thứ năm của Việt Nam với thu nhập được truyền thông trong
nước cho biết là lên đến gần 5 tỉ Mỹ kim trong năm 2011, thì khó mà biết được.
Công ty độc quyền này đã báo cáo thua lỗ 3,5 tỉ đồng vào năm 2011, nhưng nhiều
nhà kinh tế nghi ngờ sự chính xác của những công bố tài chính của công ty này.
EVN công bố một số kết quả với truyền thông
địa phương, nhưng không đưa ra chi tiết về những con số tài chính.
Viễn cảnh phai mờ
Bất chấp những khó khăn, Việt Nam vẫn giữ
nguyên là một quốc gia mạnh về sản xuất, nổi lên từ một thập niên qua sau dư âm
của chiến tranh để đóng vai trò trọng tâm trong lĩnh vực sản xuất của châu Á,
sản xuất từ giày dép đến linh kiện máy tính. Một nền kinh tế từng được xây dựng
trên những cánh đồng bị rải thảm bom giờ đây đang phô trương những trung tâm
thương mại và những toà nhà chọc trời.
Nhưng trong những năm gần đây những khó
khăn đã che phủ viễn cảnh của nó - từ cơn lốc lạm phát cho đến luật lệ khắt
nghiệt, cơ sở hạ tầng rệu rã và nợ nần chồng chất với một hệ thống tài chính
thiếu minh bạch.
Tăng trưởng tín dụng đã suy giảm mạnh trong
năm nay và mức tăng trưởng hàng năm của nền kinh tế đang vào khoảng 4%, giảm từ
mức gần 7% vào năm 2010.
Ngân hàng trung ương tuyên bố vào tháng Bảy
rằng những nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đang ở mức 8,6%, gần gấp đôi dự đoán
trước đấy và chiếm tỉ lệ cao nhất trong những quốc gia lớn vùng Đông nam Á, cơ
quan đánh giá tín dụng Moody’s Investors Service cho biết.
Ngân hàng trung ương trích dẫn “kết quả
điều tra” từ những nhà kiểm tra của mình để đưa ra con số tăng trên. Báo chí
nhà nước hôm tháng Sáu đã trích lời Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn
Bình rằng tỉ lệ nợ xấu là 10%, và một số nhà phân tích tin rằng con số này vẫn
còn cao hơn nữa.
“Thật khó mà xác định rằng chúng tôi nên
chấp nhận con số nào,” Christian de Guzman, một nhà phân tích cao cấp của
Moody’s ở Singapore nói, ông tin rằng có khả năng sẽ có thêm những tiết lộ bất
ngờ về nợ chính phủ.
Đa phần những cơn đau đầu kinh tế của Việt
Nam có thể truy nguồn từ sự sai sót quản lý của các doanh nghiệp nhà nước.
Đã có một cú bơm tín dụng giá rẻ rất lớn
vào các doanh nghiệp nhà nước từ năm 2009 khi chính quyền tìm cách giảm thiểu
những ảnh hưởng của cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu. Các doanh nghiệp nhà
nước đã vung tiền mở rộng vào những lĩnh vực mà họ có rất ít kinh nghiệm.
Chính quyền đã miêu tả hai cú bùng nổ nợ
trên như những bất thường do tội quản lý sai lạc. Chín giám đốc Vinashin bị bỏ
tù trong năm nay vì đã quản lý sai lạc tài sản nhà nước, bao gồm cựu chủ tịch
Phạm Thanh Bình, người bị án 20 năm tù. Sáu giám đốc Vinalines đã bị bắt và cựu
chủ tịch đang bỏ trốn.
“Họ đã kèm quyền lợi các nhân vào trong
những quyết định đầu tư... đã có nạn tham nhũng,” Nguyễn Đức Kiên, phó chủ
nhiệm Uỷ ban Kinh tế Quốc hội nói với Reuters.
Nhưng nhiều nhà quan sát lại nói rằng kiểu
quản lý sai lạc tại Vinashin và Vinalines là một căn dịch trong các doanh
nghiệp nhà nước, nơi những giám đốc và hội đồng quản trị thường được bổ nhiệm
nhờ quan hệ chính trị hơn là tính nhạy bén trong kinh doanh. Đích thân Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cổ xuý cho sự mở rộng của Vinashin và đã đưa ra một
lời xin lỗi hiếm hoi trước các dân biểu sau khi nó bị sụp đổ, dẫn đến hàng loạt
những việc tuột hạng tín dụng đầy xấu hổ của Việt Nam.
Nhưng chẳng ai trong chính phủ bị đưa ra
xét xử hoặc trừng phạt vì sự sụp đổ của công ty này.
Việc bắt giữ vị giám đốc ngân hàng 48 tuổi
Nguyễn Đức Kiên, là một trong 30 gia đình giàu có nhất Việt Nam, có thể là dấu
hiệu của mối căng thẳng ngày càng cao trong giới lãnh đạo Cộng sản đối với
chính sách kinh tế.
“Có rất nhiều những bất mãn trong cách vị
thủ tướng giúp đỡ những đứa con cưng, những doanh nghiệp nhà nước,” Steve
Norris, một nhà phân tích về Việt Nam tại Control Risks Group ở Singapore nói.
Những cải cách rụt rè
Một loạt những cải cách mới nhất được công
bố vào tháng trước thoạt nhìn có vẻ rất mạnh bạo. Các doanh nghiệp nhà nước cho
đến năm 2015 phải rút ra khỏi các hoạt động kinh doanh không cốt lõi và đệ
trình kế hoạch tái cấu trúc vào quí ba của năm. Chính quyền nói rằng họ sẽ bắt
các doanh nghiệp nằm trong “cơ cấu thị trường”, chọn lựa các giám đốc kỹ càng
hơn, cho phép họ có thêm quyền để chống đỡ những can thiệp chính trị, và thiết
lập một cơ quan đặc biệt để giám sát việc các doanh nghiệp nhà nước sử dụng
vốn.
Nhưng Nguyễn Đức Kiên thuộc uỷ ban kinh tế
Quốc hội thừa nhận rằng những thay đổi cần phải dài hơn 2-3 năm mới có được kết
quả. Trong khi ấy, các nhà phân tích muốn thấy được những báo cáo tài chính
hàng quí mà các doanh nghiệp nhà nước có bổn phận phải công bố theo chỉ thị mới
để xác định rằng tính minh bạch thực sự đã có tiến bộ.
Những người chỉ trích như nhà kinh tế có
đầu óc cách tân Lê Đăng Doanh nói rằng những thay đổi chẳng giúp được gì nhiều
trong việc ngăn chặn vấn đề cốt lõi - đó là việc chính phủ miễn cưỡng xoá bỏ
quyền kiểm soát kiểu Sô Viết xưa đối với các doanh nghiệp nhà nước lớn, vốn là
đòn bẩy quan yếu đối với quyền lực kinh tế và xã hội của Đảng Cộng sản.
“Đảng Cộng sản vẫn giữ vai trò chủ đạo và
các doanh nghiệp nhà nước vẫn là công cụ cho tính ổn định của kinh tế vĩ mỗ,”
ông Doanh, người đã cố vấn cho chính quyền nói. “Một khi điều này còn tồn tại
thì bất kỳ khái niệm cải cách nào cũng đều bị giới hạn.”
Bất chấp giới tiêu thụ đầy sức sống, quốc
gia này vẫn đang thiếu vắng một sự xốc lại về quan tâm đầu tư trong năm nay như
những quốc gia láng giềng Đông nam Á khác như Philippines và Indonesia.
Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã giảm 28%
trong nửa đầu năm 2012 so với năm trước, một dấu hiệu cho thấy các công ty đang
ngày càng lo lắng trước những bất ổn về chính sách ở Việt Nam và đang tìm đến
những quốc gia lao động giá rẻ khác như Miến Điện vừa mở cửa.
“Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đang nhìn
vào Miến Điện chứ không phải Việt NHam,” một nhà ngoại giao nước ngoài ở Hà Nội
nói. “Những quả ngọt vừa tầm tay ở Việt Nam đã bị hái hết.”
EVN - Nợ nần và hỗn loạn
Việt Nam đã dần dần cải cách các doanh
nghiệp nhà nước trong nhiều năm, cắt giảm số công ty từ 6.000 xuống 1.300 kể từ
đầu thế kỷ và chuyển 3.388 doanh nghiệp và những công ty con sang lĩnh vự tư
nhân qua quá trình gọi là “cân bằng hoá”.
Nhưng quá trình tư nhân hoá từ ấy đã bị
chững bước.
Đào Văn Hưng bị mất chức chủ tịch EVN vào
năm nay sau những thua lỗ nặng nề ở bộ phận viễn thông, không bao lâu trước khi
công ty này cũng như những món nợ của nó bị nuốt trọn bởi công ty viễn thông
đối thủ Viettel do quân đội quản lý. Hưng đã bị đưa lại về Bộ Công thương nơi
ông ngồi đợi khả năng bị điều tra.
Dưới quyền của Hưng, EVN đã bành trướng
sang lĩnh vực nhà đất, viễn thông và ngân hàng trong khi đất nước đang khốn đốn
với nạn cắt điện vì thiếu đầu tư vào lĩnh vực sản xuất điện.
Vị quan chức trong ngành trao đổi với
Reuters nói rằng phương pháp kế toán của công ty là một bí ẩn, thậm chí đối với
nhiều người làm việc ở đấy, không có sự rõ ràng về việc những thua lỗ là từ
ngành kinh doanh chính hay từ những kinh doanh mới mở của mình.
Một lực lượng nhân viên thừa mứa, kém khả
năng là một trở ngại lớn khác, ông nói.
Bất chấp những phiêu lưu kinh doanh mới yểu
mệnh, tổng số nợ của EVN chắc chắn đến từ việc nó không thể tăng cao giá điện
để bù đắp chi phí sản xuất. Việt Nam là một trong những nơi có giá điện thấp
nhất châu Á, nhưng điều này đã dẫn đến việc thiếu đầu tư và nguồn cung cấp điện
bấp bênh gây ảnh hưởng xấu đến kinh doanh.
Hank Tomlinson, chủ tịch Phòng Thương mại
Hoa Kỳ tại Việt Nam nói rằng một số các công ty đầu tư nước ngoài chuyên sản
xuất nước giải khát tại Việt Nam hoạt động bằng máy phát điện riêng của mình
toàn thời gian vì tính ra còn rẻ hơn là phải đối diện với nạn cắt điện.
“Điều mà các doanh nghiệp cần là tính sẵn
sàng và đáng tin cậy về điện năng, không phải là điện giá rẻ nhưng cần phải có
máy phát điện chạy suốt ngày để dự phòng,” Tomlinson nói.
EVN đã tăng giá điện lên 5% trong năm nay
nhưng việc thiếu vắng tính minh bạch trong lý do tăng giá đã tạo ra những nghi
ngờ trong giới doanh nghiệp vào thời điểm đang nổi lên nạn phá sản vì tín dụng
bị thắt chặt.
“Các doanh nghiệp giờ đây phải chịu đựng
quá nhiều bất ổn và thiệt hại kinh tế, nhưng cho đến giờ chúng tôi có thể làm
được điều gì? Chúng tôi cứ phải chịu đựng thôi,” Chủ tịch Tập đoàn Giấy Sài Gòn
cho biết, ông nói thêm rằng EVN đã không đưa ra cảnh báo trong đợt tăng giá vừa
qua.
Nguồn: Reuteurs
No comments:
Post a Comment