12-8-2012
Áo và Tiệp Khắc là hai quốc gia bị
Đức cưỡng chiếm đầu tiên ngay cả trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ. Trong lúc
Đức chiếm Áo không gây nhiều phản ứng vì Áo có nhiều liên hệ với Đức về lịch
sử, ngôn ngữ, văn hóa và chính bản thân Hitler vốn là người Áo, việc cưỡng
chiếm Tiệp Khắc là một biến cố lớn vì Tiệp Khắc là một nước độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và được xem là một trong số mười cường quốc châu Âu thời đó.
Suốt thời gian dài hơn sáu năm dưới
ách thống trị của Đức Quốc Xã, nhân dân Tiệp đã chịu đựng vô số thương vong,
thiệt hại. Hàng trăm ngàn người bị giết và hàng trăm ngàn người khác bị đày ải
trong các trại tập trung. Thế nhưng phải chăng ngày đó Tiệp Khắc yếu đến mức
không bắn được phát súng nào?
Không. Trước Thế chiến thứ hai,
thừa hưởng các thành tựu kỹ thuật của thời đế quốc Áo Hung, Tiệp Khắc là một
trong sốt ít quốc gia có một quân đội đông đảo nhất và được trang bị tối tân
nhất châu Âu. Việc Tiệp Khắc rơi vào tay Đức nhẹ nhàng như chiếc lá mùa thu
phát xuất từ ba lý do chính. Hai lý do khách quan:
(1) Bành trướng về hướng
đông là chủ trương truyền thống của Đức,
(2) Chính sách nhân nhượng
(appeasement policy) của các lãnh đạo chủ hòa châu Âu đứng đầu là Thủ tướng Anh
Neville Chamberlain, và một lý do chủ quan:
(3) Tiệp Khắc là một quốc gia ô
hợp, phân hóa, suy yếu, có nhiều chính khách làm tôi mọi cho ngoại bang và
giới lãnh đạo chính phủ không có quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
Bành trướng về hướng Đông là chủ
trương truyền thống của Đức.
Sau giai đoạn cách mạng 1848, Đức
trở thành cường quốc. Sức mạnh của Đức thể hiện không chỉ trong các lãnh vực
kinh tế, quân sự, dân số mà cả khoa học. Tổng số giải Nobel các khoa học gia
Đức được tặng thưởng trong giai đoạn 47 năm tồn tại nhiều hơn tổng số giải
Nobel của các khoa học gia Anh, Pháp, Nga và Mỹ cộng lại. Năm 1871, Đế Quốc Đức
bao gồm 27 khu vực, dưới sự lãnh đạo của Otto von Bismarck đã vượt qua đế quốc
Anh. Giống như mọi đế quốc khác trong lịch sử, để tiếp tục lớn mạnh cần phải có
tài nguyên thiên nhiên.
Đức là quốc gia nằm ngay giữa châu
Âu và về mặt địa lý chính trị, suốt nhiều thế kỷ, các chế độ quân chủ Đức cũng
chủ trương các quốc gia phía Đông trong đó có Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary là
hàng rào an ninh của Đức để đương đầu với hai nước lớn khác là Pháp và Nga.
Sau khi sáp nhập Áo vào tháng Ba
năm 1938 không cần dùng đến võ lực, Hitler tập trung vào chiến lược chiếm Tiệp
Khắc bất chấp sự chống đối của nhiều tướng lãnh cao cấp trong đó có tướng
Ludwig Beck, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Đức. Bản thân của Hitler cũng đánh
giá Tiệp rất cao nên không dám công khai đưa quân vượt biên giới xâm lăng quốc
gia này. Vì vùng Sudetenland có đông dân Đức và có nguồn dự trữ nguyên liệu lớn
nhất của Tiệp Khắc, Hitler nghĩ đến việc chiếm vùng Sudetenland trước và dùng
khu vực giàu có này làm bàn đạp thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc.
Chính sách nhân nhượng
(appeasement policy) của các các lãnh đạo Anh, Pháp đứng đầu là Thủ tướng
Nevill Chamberlain đã “khuyến khích” Đức chiếm Tiệp Khắc.
Sau Thế chiến thứ nhất, dù thắng
hay bại, các quốc gia đều phải chịu đựng một thời kỳ suy thoái kinh tế trầm
trọng. Khuynh hướng chủ hòa chế ngự trong sinh hoạt chính trị tại các cường
quốc dân chủ và lãnh tụ hàng đầu của khuynh hướng này là thủ tướng Anh, Nevill
Chamberlain. Thủ tướng Nevill Chamberlain tìm cách hòa giải mối thù địch với
Đức. Khi Đức sáp nhập Áo, Chamberlain không có phản ứng cụ thể nào.
Khi Hitler công khai bày tỏ ý định
sáp nhập vùng Sudetenlan của Tiệp Khắc đang có hơn ba triệu người gốc Đức, vào
lãnh thổ Đức, vấn đề trở nên phức tạp vì Tiệp Khắc có liên minh quân sự với
Pháp và Pháp có liên minh quân sự với Anh. Thủ tướng Anh Nevill Chamberlain qua
trung gian của Sir Horace Wilson chuẩn bị đàm phán với Đức và qua trung gian
của Lord Runciman thuyết phục Tiệp Khắc nhượng bộ. Trong lúc Hitler thông đồng
với các nước nhỏ như Hungary và Ba Lan để xẻ thịt Tiệp, Tổng thống Mỹ Franklin
Roosevelt tuyên bố chủ trương trung lập của Mỹ về tranh chấp Sudetenland.
Ngày 15 tháng Chín năm 1938, Thủ
tướng Nevill Chamberlain bay sang Đức để thương thuyết với Hitler. Các cuộc
thương thuyết giằng co cho đến sáng sớm 30 tháng 9 năm 1939, thỏa hiệp
Munich được ký kết giữa Đức, Anh, Pháp và Ý, trong đó, cho phép Đức sáp
nhập vùng Sudetenland trù phú và chiến lược vào lãnh thổ Đức.
Tiệp Khắc không được mời tham dự
hội nghị và chỉ được Anh Pháp thông báo kết quả. Chính phủ Tiệp nghĩ rằng Tiệp
Khắc không có hy vọng gì thắng được Đức bằng sức mạnh của riêng mình, đã đồng ý
với nội dung của thỏa hiệp Munich. Theo thỏa hiệp này, tướng Đức Wilhelm Keitel
được cử vào chức thống đốc quân sự vùng Sudetenland. Những người dân Tiệp không
phải gốc Đức phải rời Sudetenland trong vòng 10 ngày và không được mang theo
bất cứ một món sở hữu nào. Câu Phản bội Tiệp Khắc để chỉ sự phản bội của
đồng minh đối với Tiệp ra đời từ đó.
Mất Sudetenland, Tiệp Khắc không
chỉ bỏ trống biên giới chiến lược phía nam mà còn mất 70% dự trữ sắt thép, 70%
điện và 3 triệu công dân Tiệp. Trong lúc hiệp ước Munich là một thành quả ngoại
giao lớn của Nevill Chamberlain, đối với Hitler lại là một bước lùi. Mục tiêu
của Hitler không phải chỉ chiếm vùng Sudetenland mà cả nước Tiệp như Wilson
Churchill tiên đoán. Đầu năm sau, Hitler lần lượt chiếm các vùng Bohemia,
Moravia và phần còn lại của Tiệp Khắc.
Cả hai lý do trên không thể làm
Tiệp Khắc mất một cách nhanh chóng nhưng chính sâu mọt và phản bội ngay trong
lòng nước Tiệp và một chính phủ phân hóa, yếu kém, thiếu quyết tâm mới là những
lý do chính làm tan rã Tiệp Khắc.
Rất nhiều sâu mọt trong nội bộ
Tiệp và đứng đầu là Konrad Henlein lãnh đạo của đảng Sudeten gốc Đức.
Konrad Henlein một thầy giáo bậc trung học, lúc đó đang hoạt động dưới
danh nghĩa đảng Sudeten quy tụ đa số dân Tiệp gốc Đức. Konrad Henlein sinh tại
Bohemia, Tiệp Khắc có cha là người Đức và mẹ là người Czech. Đảng Sudeten của
Konrad Henlein thông đồng với đảng Quốc Xã Đức và được đảng này tài trợ và huấn
luyện. Mỗi tháng đảng Sudeten nhận 15 ngàn Đức Mã để trang trải các chi phí
hoạt động. Ngày 28 tháng Ba năm 1938, Hiter gọi Konrad Henlein sang Đức và đích
thân ra chỉ thị cho tên Tiệp gian này phải đưa ra những điều kiện mà Tiệp Khắc
không thể thỏa mãn được. Mặc khác, Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của
Đức Quốc Xã, tung một chiến dịch tuyên truyền ồ ạt về việc chính phủ Tiệp bạc
đãi, đàn áp dân gốc Đức trong vùng Sudetenlan và xúi dục người dân Tiệp gốc Đức
đứng lên đòi quyền tự trị.
Về lại Tiệp, Tiệp gian Konrad Henlein
đòi chính phủ Tiệp phải để vùng Sudetenlan hoàn toàn tự trị, thay đổi chính
sách đối ngoại của chính phủ Tiệp và toàn quyền phổ biến lý thuyết Quốc Xã. Dĩ
nhiên, đòi hỏi tự trị còn có thể đàm phán được nhưng việc tự do tuyên truyền tư
tưởng Quốc Xã khó có thể chấp nhận. Khi đàm phán bắt đầu, Tiệp gian Konrad
Henlein và đảng của y lại tạo nhiều xáo trộn bạo động trong vùng và tiếp tục
làm khó dễ chính phủ trung ương cho đến khi hiệp ước Munich được ký kết. Ngày 1
tháng Mười năm 1938, các đơn vị tiền phương của quân đội Đức vượt qua biên giới
Tiệp giữa tiếng hò reo ủng hộ của các đảng viên đảng Sudeten, và cũng trong lúc
đó hàng chục sư đoàn Tiệp được trang bị đầy đủ được chính phủ ra lịnh rút lui.
Phía sau đoàn quân Đức là các đơn vị mật vụ Gestapo và lực lượng anh ninh SS.
Chỉ trong thời gian ngắn 10 ngàn người dân Tiệp, kể cả dân nói tiếng Đức nhưng
chống Hitler, bị đày vào các trại tập trung vừa mới xây ở Sudetenland.
Konrad Henlein gia nhập lực lượng
an ninh Đức và tham gia vào đảng Quốc Xã. Mặc dù sinh ra, lớn lên trên đất
Tiệp, Konrad Henlein đã góp phần quan trọng trong việc rước voi Đức giày lên
Tiệp Khắc. Y được thưởng nhiều chức vụ và được cho phép làm công dân Đức. Sau
khi Tiệp Khắc được đồng minh giải phóng, tên Tiệp gian phản quốc Konrad Henlein
bị bắt và y đã tự sát bằng cách cắt gân máu ở cổ tay.
Kẻ phản bội thứ hai là tổng thống
bù nhìn Emil Hacha. Sau khi Edvard Benes, tổng thống
thứ hai của Tiệp Khắc từ chức, tân tổng thống Emil Hacha là một người nhu
nhược. Buổi tối ngày 11 tháng Ba năm 1939, Hitler cho triệu Hacha đến Bá Linh
và thông báo cho ý định chiếm toàn bộ Tiệp Khắc bằng võ lực và hứa nếu Hacha
chịu hợp tác, Tiệp Khắc sẽ được hưởng quyền tự trị rộng rãi còn nếu nghịch sẽ
bị đoàn quân Hitler tấn công Tiệp bằng mọi phương tiện trong đó có cả việc
không quân của Đức cày nát thủ đô Prague. Emil Hacha quy thuận Hitler. Dưới
thời Đức Quốc Xã chiếm đóng y được giữ chức vụ tổng thống bù nhìn nhưng buộc
phải tuyên thệ trung thành trước Hitler. Mặc dù có nhiều tài liệu cho thấy Emil
Hacha trong thời gian phục vụ Hitler cũng lén lút giúp cho phong trào kháng
chiến chống Đức thuộc chính phủ lưu vong của Edvard Benes nhưng công không đủ
để chuộc tội cho y. Sau khi Prague được giải phóng vào tháng Năm năm 1945, Emil
Hacha bị bắt và chết hơn hai tháng sau đó trong hoàn cảnh bí mật. Y được chôn
trong một ngôi mộ không đề bia tại nghĩa trang Vinohrady. Hiện nay, tại nghĩa
trang Vinohrady có một tấm bảng ghi dấu nơi chôn của Emil Hacha.
Jozef Tiso là một kẻ phản quốc đội
lốt tôn giáo. Mặc dù thụ phong linh mục nhưng y
cũng là một trong những đảng viên nòng cốt của đảng Nhân Dân Slovak. Lợi dụng
sự suy yếu của Tiệp Khắc sau hiệp ước Munich, đảng Nhân Dân Slovak do Tiso lãnh
đạo tuyên bố Slovak tự trị trong vòng Tiệp Khắc. Vào 13 tháng Ba năm 1939,
giống như vừa đe dọa Emil Hacha vài hôm trước đó, Hitler triệu Jozef Tiso đến
Bá Linh và buộc y phải tuyên bố Slovak độc lập, tách rời khỏi Tiệp Khắc, nếu
không Hitler sẽ thúc giục Hungary và Ba Lan chiếm đóng phần lãnh thổ còn lại
của Slovakia. Jozef Tiso cũng tuân phục Hitler và trở nên một cộng tác viên
trung thành cho chế độ Quốc Xã. Từ năm 1939 đến năm 1945, Tiso là tổng thống bù
nhìn Slovakia chư hầu của Đức. Đảng Nhân Dân Slovak do y lãnh đạo liên kết chặt
chẽ với đảng Quốc Xã Đức và chia sẻ quan điểm diệt Do Thái. Khi hồng quân Liên
Xô tiến vào chiếm Slovakia tháng Tư năm 1945, Tiso bị bắt và bị kết án phản
quốc. Jozef Tiso bị treo cổ ngày 18 tháng Tư năm 1947. Chính phủ Tiệp Khắc chôn
y tại một nơi bí mật.
Chính phủ Tiệp Khắc nhu nhược không
quyết tâm bảo vệ đất nước.
Phân hóa và thiển cận trong thành phần lãnh đạo của hai sắc dân Slovak và
Czecho trong chính phủ Tiệp đã làm thượng tầng kiến trúc lãnh đạo sụp đổ nhanh
chóng.
Tiệp Khắc trong giai đoạn năm
1938-1939 đứng trước những khó khăn và áp lực quá lớn không những từ quốc tế mà
ngay cả tại trong nội bộ Tiệp, nhưng thay vì đoàn kết để đương đầu với ngoại
xâm, các sắc dân Tiệp đã phân hóa, chia rẽ và tiếp tay làm yếu khả năng đối đầu
với Đức.
Xét về tương quan quân sự. Theo
tổng kết của Giáo sư Sử học Carroll Quigley, đại học Georgetown dựa theo các
tài liệu thuộc văn khố quân sự Mỹ sau Thế chiến thứ hai, trong giai đoạn đầu
thù địch Đức Tiệp bùng nổ, Đức có 36 sư đoàn nhưng không được trang bị đầy đủ
trong lúc Tiệp Khắc có 35 sư đoàn thiện chiến và được trang bị một trăm phần
trăm hỏa lực. Vào tuần lễ thứ ba của tháng Chín năm 1939, quân đội Tiệp Khắc đã
có một triệu quân với 34 sư đoàn tinh nhuệ trong lúc toàn bộ quân Đức để phối
trí tại hành lang châu Âu chỉ có từ khoảng 31 đến 36 sư đoàn. Về không quân,
vào tháng Chín năm 1938, Đức trội hơn Tiệp Khắc chút ít. Đức có 1500 máy bay
trong lúc Tiệp có gần 1000 chiếc nhưng nếu tính cả Anh, Pháp số lượng phi cơ
của ba nước cộng lại vượt xa Đức. Liên Xô ủng hộ Tiệp nên cũng gởi 36 phi cơ
chiến đấu đến Tiệp qua ngã Rumania. Về chiến xa, tăng của Đức còn yếu hơn tăng
của Tiệp Khắc. Ngoại trừ loại tăng thuộc thế hệ Mark III có trang bị pháo 37
li, phần lớn tăng thế hệ Mark II của Đức chỉ trang bị đại liên. Tiệp Khắc có
mấy trăm xe tăng hạng nặng 38 tấn trang bị pháo 75 li hiện đại nhất thời đó.
Nếu đánh nhau với Đức trong một
cuộc chiến tranh quy ước, chưa chắc Tiệp đã thua. Mà dù có thua, Tiệp Khắc cũng
kéo dài cuộc chiến được một hai năm đủ thời gian cho quốc tế can thiệp hay tìm
cách lôi kéo các nước châu Âu vào ván cờ sinh tử. Khi tràn ngập Tiệp Khắc vào
tháng Ba năm 1939, Đức tịch thu của Tiệp 469 xe tăng, 1500 phi cơ chiến đấu đủ
loại, 43 ngàn súng máy và nhiều triệu súng trường. Số lượng vũ khí đó Đức đã
phải tốn hàng năm mới sản xuất được.
Tiệp Khắc, một quốc gia có điều
kiện kỹ thuật tiên tiến nhất châu Âu và từng là một phần của đế quốc Áo Hung
hùng mạnh đã bị Hitler xóa tên khỏi bản đồ thế giới không tốn một viên đạn. Với
một quân lực cả triệu người và phương tiện đầy đủ nhưng chỉ vì sự yếu hèn của
cấp lãnh đạo, Tiệp Khắc trở thành đỉa thịt bò tươi trong bữa cơm chiều của
nhiều khách lạ.
Sau khi Tiệp bị Hitler cưỡng chiếm,
hàng ngàn người dân Tiệp yêu nước phải tự phát rút vào chiến tranh du kích chỉ
bằng vài tạc đạn và vài khẩu súng ngắn. Nguồn tiếp tế quá xa và kho súng đạn
khổng lồ đã bị tịch thu, họ đã phải chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn.
Hàng trăm ngàn người Tiệp đã chết dưới bàn tay sắt của tử thần SS Reinhard
Heydrich. Tướng SS Reinhard Heydrich, cai trị Bohemia và Moravia (vùng đất Tiệp
sau khi sáp nhập vào Đức) được các sử gia đánh giá là tên tướng độc ác nhất
trong hàng tướng lãnh công an mật vụ SS Đức. Y là một trong những kiến trúc sư
của kế hoạch tiêu diệt dân Do Thái Holocaust. Hitler ca ngợi Heydrich là “con
người có trái tim bằng sắt”. Y bị kháng chiến quân Tiệp ám sát tại Prague vào
cuối tháng Năm năm 1942. Đức trả thù tàn bạo. Hai làng Lidice và Lezaky, tình
nghi che giấu kháng chiến quân, bị đốt thành tro, tất cả đàn ông đều bị bắn
chết, chỉ còn một ít phụ nữ và trẻ em bị đày vào các trại tập trung.
Sự chịu đựng của nhân dân Tiệp đã
để lại nhiều bài học cho Việt Nam khi đương đầu với chủ nghĩa bành trướng Trung
Quốc.
Tương tự như Đức Quốc Xã đối với
Tiệp Khắc, Trung Quốc chủ trương bành trướng xuống vùng Đông Á
Như đã trình bày trong bài "Hiểm họa Trung Quốc và bài học Thổ Nhĩ Kỳ",
vì các lý do an ninh, chính trị, kinh tế, Trung Quốc phải tìm mọi cách khống
chế biển Đông. Hai nỗi lo lớn của giới lãnh đạo CS Trung Quốc là sợ bị bao vây
từ bên ngoài và diễn biến hòa bình bên trong nội bộ Trung Quốc. Nhìn quanh, họ
chỉ thấy kẻ thù. Thật vậy, hầu hết các quốc gia dân chủ trong vùng từ Ấn Độ đến
Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Thái Lan, tuy mức độ khác nhau nhưng đều là các
quốc gia đang có những mâu thuẫn căn bản với Trung Quốc, không những về quyền
lợi kinh tế mà cả chế độ chính trị. Sự lệ thuộc về chính trị của Việt Nam vào
Trung Quốc không chỉ giúp giữ an toàn phòng tuyến phía nam mà còn tránh sự sụp
đổ dây chuyền trong trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước.
Tuy nhiên, khác với Đức Quốc Xã, Trung Quốc không dám tung một cuộc tấn công
toàn lực như Hitler chuẩn bị cho Tiệp mà chủ trương gậm nhấm từng phần đất,
từng ngọn núi và từng hải lý của Việt Nam.
Nắm được yếu điểm của CSVN, trong
lúc tiếp tục phát triển kinh tế, mở rộng ngoại giao với hầu hết các quốc gia từ
năm 1978, Đặng Tiểu Bình vẫn tiếp tục phát động chiến tranh xoi mòn biên giới
Việt Nam như trận Cao Bằng năm 1980, Lạng Sơn và Hà Tuyên năm 1981, Vị Xuyên Hà
Tuyên năm 1984, Lão Sơn Hà Giang năm 1984, Vị Xuyên lần nữa vào năm 1985 và năm
1986. Trên mặt biển Trung Quốc tiếp tục xâm phạm chủ quyền Việt Nam, bắn thủng
ghe tàu, thành lập thành phố Tam Sa, đưa hàng ngàn tàu đánh cá ra khơi, tàn sát
ngư dân Việt Nam.
Lãnh đạo CS Trung Quốc biết những
hành động lấn ép đó không đủ mạnh, đủ lớn để làm quốc tế lưu tâm. Không một Hội
Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc nào rảnh rỗi để bàn chuyện vài chiếc ghe đánh cá
của ngư dân Việt Nam bị “tàu lạ” húc ngoài Quảng Ngãi hay đặt vấn đề tại sao
các tàu đánh cá Trung Quốc cứ tiếp tục thả lưới trong vùng biển Việt Nam. Những
sự kiện ghe tàu đó đối với các cường quốc là chuyện vặt nhưng với một nước nhỏ
như Việt Nam nơi có nhiều triệu dân gắn liền với ngư nghiệp lại là chuyện lớn.
Đặc tính hèn hạ, nhỏ mọn đó của Trung Quốc là sản phẩm của chế độ độc tài CS và
đừng ai hy vọng gì các đặc tính đó thay đổi một khi chế độ sinh ra chúng còn
tồn tại.
Đàm phán với Trung Quốc ư? Đàm phán
đa phương quốc tế Trung Quốc không tham dự nhưng đàm phán song phương là rơi
vào chiếc bẫy của Trung Quốc. Nếu ai theo dõi chuyện Trung Quốc và Liên Xô
tranh cãi nhau về chủ quyền của các đảo Trân Bảo, Ẩn Long và Hắc Hạt Tử trong
khu vực sông Ussuri sẽ thấy. Các phiên họp tranh cãi chủ quyền kéo dài tới 20
năm, từ thập niên 1970 cho đến 1990 nhưng không đem lại kết quả nào. Mỗi lần có
một cuộc họp giữa hai nước, phái đoàn Trung Quốc chở theo một toa xe lửa chứa
đầy tài liệu và đồ vật để chứng minh chủ quyền Trung Quốc trên các đảo này.
Trung Quốc biết dù chở cả xe bằng chứng cũng chưa hẳn thuyết phục được Liên Xô
nhưng chỉ muốn kéo dài thời gian đàm phán để chờ đợi thời cơ.
Tương tự như Hitler, lãnh đạo CS
Trung Quốc lợi dụng chính sách ngoại giao mềm của Mỹ
Trong bài viết Tranh chấp Mỹ -
Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước tôi có dịp trình bày
chính sách Mỹ hiện nay là sự bước tiếp nối của chính sách ngăn chận thời Chiến
tranh lạnh trong điều kiện toàn cầu hóa. Nhiều người Việt lầm lẫn nghĩ rằng
hàng không mẫu hạm George Washington hùng mạnh thả neo ngoài khơi Đà Nẵng là để
bảo vệ Việt Nam. Thật ra, cả Trung Quốc và Mỹ đều biết dù áp dụng chính sách
nào hay dù có thái độ nào, xung đột võ trang giữa hai cường quốc lớn nhất thế
giới có phụ thuộc quá sâu, quá phức tạp về kinh tế không thể xảy ra trong một
giai đoạn ngắn tới đây.
Về phía Trung Quốc, không giống Đức
Quốc Xã cần chiến tranh để phục hồi và phát triển, Trung Quốc phải đương đầu
với hàng loạt khó khăn trên trong cũng như bên ngoài, việc phát động một cuộc
chiến tranh quy mô ở Á châu và Thái Bình Dương như Hitler đã làm với Tiệp Khắc
là một điều giới lãnh đạo CS Trung Quốc không dám thực hiện. Hơn ai hết, giới
lãnh đạo CS Trung Quốc biết họ phải cần nhiều chục năm kỹ thuật và một ngân
sách hải quân khổng lồ mới mong đuổi kịp Mỹ. Ngoài ra, chủ nghĩa Cộng Sản đã chết,
Trung Quốc hiện đang sống nhờ vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan và Thế chiến thứ
nhất 1914-1918 dẫn đến tự sụp đổ của Đế Quốc Đức, Đế Quốc Áo Hung, Đế Quốc
Ottoman đã dạy họ một bài học: Các đế quốc gây chiến trên nền tảng của chủ
nghĩa dân tộc cực đoan chẳng những không thắng mà đều tan rã từ bên trong.
Về phía Mỹ, ngoài các lý do kinh
tế, riêng trong lãnh vực quân sự cũng không phải dễ dàng. Chính phủ Mỹ trong
lúc muốn duy trì ảnh hưởng trong vùng, cũng không muốn bị cuốn vào các xung đột
mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc đối đầu với chủ nghĩa dân tộc như trường hợp
Trung Quốc và Việt Nam. Tháng Giêng 2011, Tổng thống Barack Obama trải thảm đỏ
tiếp đón Chủ tịch Trung Cộng Hồ Cẩm Đào như quốc khách với 21 phát đại bác chào
mừng. Trong buổi tiếp tân, TT Obama ca ngợi “sự hợp tác tốt đẹp giữa hai
nước”. Khi trả lời buổi phỏng vấn dành cho tờ Wall Street Journal, Hồ Cẩm
Đào công nhận sự quan trọng trong quan hệ tốt giữa Trung Quốc và Hòa Kỳ. Họ Hồ
cũng nhấn mạnh đến việc hai quốc gia phải “hành động phù hợp với quyền lợi
căn bản của nhân dân hai nước, và tôn trọng quyền lợi chung của hòa bình và
phát triển thế giới”.
Dân biểu Ileana Ros-Lehtinen, thuộc
đảng Cộng Hòa, Chủ tịch Ủy ban Ngoại Giao Hạ Viện trong một văn bản công bố cho
báo chí sau đó, đã nghiêm khắc phê bình Trung Quốc không xứng đáng là một cường
quốc vì nhiều lý do và một trong những lý do, Trung Quốc đã ngang nhiên xem
Biển Đông như là “quyền lợi chính” và xem thường quyền hàng hải và lãnh thổ của
các quốc gia vùng Đông Nam Á. Các lãnh đạo Cộng Hòa cũng tố cáo TT Obama đã
thực thi chính sách “Nhân nhượng” của Nevill Chamberlain để đối phó với Trung
Quốc. Dĩ nhiên, TT Barack Obama phủ nhận những lời kết án này.
Tương tự như Đức Quốc Xã đối với
Tiệp Khắc, Trung Quốc nắm chắc các thành phần lãnh đạo cam thân làm nô bộc cho
ngoại bang và không quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
Trung Quốc biết rất rõ tham vọng cố
bám vào chiếc ghế quyền lực của giới lãnh đạo CSVN. Chủ trương “hợp tác hổ
tương bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các quốc gia” của lãnh đạo CSVN chỉ
là một khẩu hiệu tuyên truyền che đậy sự sợ hãi trước đàn anh CS Trung Quốc.
Ngay cả các cường quốc Anh, Nhật, Pháp cũng không chủ trương như vậy đừng nói
chi là những nước mang số phận sân sau như Việt Nam. Các nước nhỏ như Phần Lan,
Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Đài Loan, Nam Hàn vượt qua được những nhược điểm khách
quan và chủ quan của đất nước họ bởi vì họ biết cách vận dụng chính sách đối
ngoại của các cường quốc để phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Không chỉ
Thổ Nhỉ Kỳ cần Anh Quốc mà Anh Quốc cũng cần Thổ Nhĩ Kỳ và tương tự không chỉ
Đài Loan cần Mỹ nhưng Mỹ cũng cần Đài Loan.
Quan hệ Trung Quốc và Việt Nam
không giống như quan hệ giữa Mỹ và Philippine hay Mỹ và Nam Hàn. Giới lãnh đạo
CSVN không có vị trí độc lập về chính sách đối ngoại. Mọi chính sách trước khi
đưa ra đều phải đo lường phản ứng từ phía Trung Quốc. CS Trung Quốc và CS Việt
Nam chia sẻ nhau một lịch sử lâu dài từ ngày đảng Cộng sản hai nước được thành
lập. Hai đảng gắn bó về cả vật chất lẫn tinh thần. Câu nói của Mao “Nhiệm vụ
trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là nắm lấy quyền lực thông qua
đấu tranh võ trang và giải quyết vấn đề bằng chiến tranh” là tư tưởng chỉ
đạo của đảng CSVN trong khi vạch định đường lối suốt hai cuộc chiến. Năm 1950,
Trung Quốc là nước đầu tiên công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cả hai nước đã
thừa nhận sự đóng góp của và người của Trung Quốc vào mục đích thiết lập chế độ
Cộng sản tại Việt Nam. Nợ máu xương chồng chất. Tuy không dính dáng gì đến dân
tộc Việt Nam nhưng nhân dân Việt Nam đã và đang phải trả bằng máu của bao nhiêu
thế hệ từ trước năm 1975 cho đến nay và chưa biết ngày nào mới trả hết.
Bài học từ chủ nghĩa dân tộc cực
đoan
Bài học lớn nhất
mà nhân loại học được từ Thế chiến thứ hai là sự thụ động, tiêu cực của con
người trước hiểm họa của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Những kẻ chịu trách nhiệm cho cái
chết của 70 triệu người không chỉ là Adolf Hitler, Benito Mussolini và Kideki
Tojo nhưng còn là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain và Tổng thống Pháp Édouard
Daladier. Chính người dân Đức đã bỏ phiếu cho Hitler và người dân Anh đã nhảy
nhót vui mừng khi lãnh thổ Tiệp rơi vào tay của Đức. Trong một thời gian ngắn
trước Thế chiến thứ hai, không chỉ Đức thôi mà cả nước yếu kém hơn Tiệp như Ba
Lan, Hungary cũng dự phần vào bữa tiệc nấu bằng thịt xương Tiệp Khắc. Thế chiến
thứ hai có thể đã không xảy ra hay xảy ra với mức độ tác hại thấp hơn nếu số
lớn nhân loại ngày đó không thỏa hiệp, không đồng lõa với cái ác.
Từ đó để thấy, việc ngăn chận chủ
nghĩa dân tộc cực đoan Trung Quốc ngày nay phải là trách nhiệm hàng đầu của
nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý bởi vì lịch sử chứng minh chủ nghĩa
dân tộc cực đoan dẫn đến chiến tranh ngay cả trong trường hợp các kẻ chủ trương
cực đoan không muốn. Chưa từng có một trường hợp nào ngược lại. Giới lãnh đạo
CS Trung Quốc là những người nhúm lên ngọn lửa dân tộc cực đoan nhưng lửa cháy
mạnh hay yếu tùy thuộc vào nhiều yếu tố có khi không nằm trong vòng kiểm soát
của họ.
Các chủ trương đồng hóa và diệt
chủng các dân tộc yếu thế là phó sản của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Từ giai
đoạn sau cách mạng Pháp 1789 đến Thế chiến thứ nhất rồi Thế chiến thứ hai cho
tới các cuộc chiến đẫm máu vùng Balkans giữa các nước thuộc liên bang Nam Tư
cũ, máu nhân loại đã đổ liên tục vì chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Sau cực tả là
cực hữu, bản đồ thế giới chưa bao giờ thay đổi nhanh chóng như trong vòng một
phần tư thế kỷ vừa qua.
Các nhà phân tích thường dựa vào
hậu quả hơn là tìm hiểu nguyên nhân nên không lấy làm lạ ít người so sánh
Hitler với Đặng Tiểu Bình. Đa số vẫn đánh giá họ Đặng như một nhà lành đạo CS
tiến bộ, mở cửa hiện đại hóa, làm dịu căng thẳng giữa hai khối. Tuy nhiên, quan
điểm của Hitler và Đặng Tiểu Bình có nhiều điểm giống nhau hơn cả giữa Hitler
và Stalin, Hitler và Mussolini hay Hilter và Mao bởi vì cả hai đã dùng chủ
nghĩa dân tộc như một phương tiện để kích thích “niềm kiêu hãnh quốc gia”, vẽ
lên trong nhận thức con người về “một loại đất nước huy hoàng tưởng tượng”, làm
gia tăng nhất thời sức mạnh kinh tế và tạo áp lực thường xuyên trên các nước
yếu hơn trong vùng.
Nhân loại nguyền rủa Hitler, kết án
Mao và phỉ nhổ Stalin, tuy nhiên, nếu chiến tranh bùng nổ tại Á Châu, với dân
số 1.3 tỉ người mà bầu nhiệt huyết được đun sôi bằng ngọn lửa hận thù, hậu quả
của chủ nghĩa dân tộc cực đoan Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình nhóm lên từ năm
1978 sẽ khủng khiếp đến dường nào. Giữa Hitler và Đặng Tiểu Bình ai tàn ác hơn
ai, chưa biết được.
Có hy vọng nào cho dân tộc Việt
Nam?
Như TT Lincoln từng nói “Một căn
nhà tự chia rẽ, căn nhà đó không thể đứng vững”. Nhìn lại Việt Nam, chưa
bao giờ dân tộc lại phải chịu đựng sự phân hóa, chia rẽ trầm trọng như hôm nay.
Một người Việt quan tâm đến tiền đồ dân tộc nào cũng đau lòng nhận ra điều đó.
Tuy nhiên, dù có thể còn khác nhau trong cách trả lời, chúng ta không thể không
đồng ý rằng, để cứu đất nước, trước hết phải tháo gỡ chiếc gông độc tài chuyên
chính ra khỏi cổ người dân và trả lại cho họ những quyền bẩm sinh mà ai cũng
có, đó là quyền làm người, quyền quyết định sinh mệnh của chính mình và của dân
tộc mình. Bởi vì, chỉ có một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ, tự chủ,
cường thịnh mới mong thắng được chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc.
__________________________________
Tham khảo:
David Faber, Munich, 1938
Appeasement and World War II, Simon & Schuster, New York 2009
William L. Shirer, The Rise and
Fall of the Third Reich, 1995
Mark Mazower, Hitler ‘s Empire, How
The Nazis Ruled Europe, The Penguin Press, New York 2008
Carl K. Savich, Nationalism and
War, MarkNews. com, 2008
Richard J. Evan, The Third Reich in
power, The Penguin Press, New York 2005
History of Germany,
Wikipedia, the free encyclopedia
Interview with Dr. Carroll Quigley,
Georgetown University, The Courier, December 12, 1952
Hitler’s Plan for Eastern Europe,
Selections from Janusz Gumkowkski and Kazimierz Leszczynski
World War II database,
Munich Conference and the Annexation of Sudetenland
Yang Kuisong, Changes in Mao
Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973, Woodrow Wilson
International Center for Scholars, 2002
*
Bài liên quan đã đăng của Trần
Trung Đạo:
No comments:
Post a Comment