03:52:am 05/08/12
Tôi
vô cùng ngạc nhiên, khi nhận được một thiệp mời đám cưới gởi qua đường bưu
điện, danh tánh nhà trai, nhà gái và cả cô dâu chú rể đều xa lạ. Gần nửa giờ
ngồi “điểm danh” tất cả bà con, bè bạn xa gần, vợ chồng tôi và mấy đứa con cũng
chẳng tìm ra “tông tích” họ là ai. Nghe bạn bè kể lại, một số không ít người
Việt mình thích có nhiều thực khách tham dự tiệc cưới của con cháu. Khách càng
đông càng chứng tỏ được thế giá của gia đình. Vì vậy có người chỉ gặp ai ở đâu
đó một lần thoáng qua, cũng có thể trở thành “quan viên” hai họ. Hơn nữa, ở cái
vương quốc nhỏ bé và hiền lành này, muốn tìm ai, cứ việc mở cuốn điện thoại
niên giám hoặc vào guleside gõ cái tên là có ngay số phone và địa chỉ. Cũng có
thể là do một ông bà khách nào đó được mời nhưng hồi báo không thể tham dự được
nên vợ chồng tôi được chọn để “điền vào chỗ trống cho có đầy đủ ý nghĩa” chăng?
Địa
điểm tổ chức tiệc cưới là một nhà hàng Tàu sang trọng nằm ngoại ô thành phố
Oslo, không xa nơi tôi ở. Ngày đám cưới còn hơn một tháng, nhưng lại đúng vào
ngày mà vợ chồng tôi phải sang London thăm vợ chồng cô con gái và mừng thôi nôi
thằng cu cháu ngoại. Vé máy bay đã “búc” rồi. Vợ chồng cô con gái cũng đã lấy
hè để đón chúng tôi. Nên dù có biết cha mẹ hay cô dâu chú rể có tên trong thiệp
mời chăng nữa, chúng tôi cũng không thể tham dự được, huống hồ lại là một người
nào đó không quen. Thấy tôi phân vân, bà xã cầm tấm thiệp màu hồng vất vào kệ
sách, lắc đầu bảo “forget it!”
Sáng
thứ Bảy, một tuần sau đó, khi đang sửa soạn hành lý, nghe điện thoại reo, tôi
bốc máy lên nghe, nhưng không thể nhận ra người bên kia đầu dây. Một người đàn
bà, tự giới thiệu tên Bích, rất lễ phép khi hỏi đúng cả tên lẫn họ của tôi.
-
Vâng, đúng là tôi, nhưng chị có thể nói rõ hơn về chị không ạ, vì xin lỗi tôi
không nhớ ra.
-
Em là Bích Kiều đây, Lê Thị Bích Kiều, mà khi mới sang Na-uy, anh làm thông
dịch giúp em đó. Tên em trong thiệp mời đám cưới là Yvonne Bich, chắc anh chị
đã nhận được. Em đổi tên này sau khi có quốc tịch Na-uy.
Tôi
giật mình nhớ ra ngay. Mặc dù trong thời gian làm thông dịch, giúp khá nhiều bà
con người Việt mới đến định cư, có biết bao nhiêu cái tên làm sao nhớ hết. Hơn
nữa cũng đã hơn 25 năm rồi còn gì. Nhưng đặc biệt, Lê Thị Bích Kiều thì tôi
không thể nào quên. Sau khi thăm hỏi, Bích Kiều xin được đến thăm vợ chồng tôi
vào lúc bốn giờ chiều. Cô bảo, gặp nhau sẽ có biết bao nhiêu điều muốn nói.
o
O o
Thời
gian còn ở trại tỵ nạn Bataan bên Phi Luật Tân, tôi may mắn được chọn làm phụ
giảng cho các lớp học tiếng Nauy. Được thầy cô dạy kèm riêng, và nhờ phụ giúp
mỗi ngày trong các lớp học cũng như làm thông dịch bất đắc dĩ cho những thuyền
nhân mới đến đảo, nên tôi có một số vốn liếng tiếng Na-uy, một thứ ngôn ngữ
hoàn toàn xa lạ với hầu hết người Việt nam lúc ấy. Và cũng nhờ cái vốn bì bõm
này, khi sang định cư ở Na-uy, tôi được chọn làm thông dịch tạm thời cho Phòng
Xã Hội và Sở Cảnh Sát thị xã, nơi gia đình tôi tạm cư. Thời gian này Na-uy nhận
một số lượng khá đông thuyền nhân được tàu Na-uy vớt trên biển và một số trường
hợp nhân đạo khác.
Nói
là thông dịch chứ thực ra chỉ giúp bà con làm hồ sơ, khai lý lịch ở Sở Cảnh
sát, xin trợ cấp ở Phòng Xã Hội, hoặc gặp bác sĩ, nha sĩ, hay vào bệnh viện
khám và chữa bệnh. Cũng qua công việc này, tôi mới thấy rõ Na-uy là một quốc
gia giàu lòng nhân đạo, mở rất rộng vòng tay, đối xử quá tốt với những người tỵ
nạn mà họ cứu vớt, cưu mang. Công việc nhàn nhã mà lương bổng cũng khá, lại còn
được cơ hội trau dồi ngôn ngữ mới, nên sau này, khi đã được chính thức nhận vào
học và đi làm trong ngành ngân hàng bưu điện, tôi vẫn xin giữ cái “job” phụ
này, nhưng chỉ làm thêm ngoài giờ hành chánh.
Tuy
nhiên, bên cạnh những điều vui ấy, tôi cũng bị “tai nạn nghề nghiệp” không ít.
Đặc biệt khi phải thông dịch cho những bà con mà tàu của họ bị bọn hải tặc tấn
công. Nghe họ kể những cảnh nghiệt ngã, thương tâm trên biển, tôi vừa không nén
được xúc động vừa ngại ngùng khi phải thông dịch lại bằng tiếng Na-uy. Hơn nữa
lúc ấy tôi cũng chưa có đủ ngôn từ để diễn đạt những điều “tế nhị”.
Ngày
ấy có một Viện Tâm Thần dành riêng cho người tỵ nạn, nằm trong Viện Đại Học
Oslo, do bác sĩ Hauff, cũng là một giáo sư tâm lý học, điều hành. Ông là vị bác
sĩ có lòng nhân hậu và rất tận tâm với nghề nghiệp. Những người tỵ nạn gặp điều
không may, bị hải tặc đánh đập hãm hiếp, hay bị mất người thân trên đường vượt
biển, đều được ông tận tình thăm nom, chăm sóc cũng như can thiệp Cơ quan Di
Trú cho ưu tiên bảo lãnh gia đình và Sở Xã Hội cấp thêm nhiều phương tiện sinh
hoạt, giải trí. Tôi sợ nhất là những lúc phải làm thông dịch để ông tâm tình,
khuyên giải, an ủi nạn nhân, mà thời gian có khi kéo dài cả một vài ngày. Bởi
vốn liếng tiếng Na-uy còn quá nghèo nàn, làm sao tôi có thể truyền đạt được
những gì ông muốn nói. Có lần nghe ông dặn dò trước khi làm việc:
-
Đây không phải một cuộc nói chuyện bình thường mà là một ca điều trị. Có điều,
những bệnh nhân này chúng ta không chữa bằng thuốc mà chữa bằng ngôn ngữ.
Mà ngôn ngữ của tôi thuộc loại ăn đong, thì làm sao giúp ông chữa loại bệnh đặc biệt trầm kha này. Nhiều lần tôi xin từ chối, nhận mình không đủ khả năng, nhưng Phòng Xã Hội không tìm được người thông dịch khác, và bác sĩ Hauff cứ gật đầu bảo là ông tin tưởng ở tôi. Cuối cùng tôi phải yêu cầu ông nói thật chậm và dùng những từ ngữ tương đối đơn giản để tôi hiểu rõ, và nhất là không hiểu lầm, những gì ông nói.
Mà ngôn ngữ của tôi thuộc loại ăn đong, thì làm sao giúp ông chữa loại bệnh đặc biệt trầm kha này. Nhiều lần tôi xin từ chối, nhận mình không đủ khả năng, nhưng Phòng Xã Hội không tìm được người thông dịch khác, và bác sĩ Hauff cứ gật đầu bảo là ông tin tưởng ở tôi. Cuối cùng tôi phải yêu cầu ông nói thật chậm và dùng những từ ngữ tương đối đơn giản để tôi hiểu rõ, và nhất là không hiểu lầm, những gì ông nói.
o
O o
Một
hôm tôi được Văn Phòng Xã Hội cho biết, phải đi theo bà Kari Mette ra phi
trường Fornebu đón một người tỵ nạn đặc biệt, được Na-uy nhận nhân đạo từ một
trại tỵ nạn Thái Lan. Người này được đưa thẳng từ Thái Lan đến Na-uy, mà không
qua trại tỵ nạn chuyển tiếp Bataan, như những người khác. Bà Kari Mette làm
việc cho một nhà thờ công giáo, nhưng vì có nhiều khả năng và uy tín, nên được
yêu cầu kiêm nhiệm đại diện cho Sở Tỵ Nạn trong khu vực thị xã.
Chúng
tôi được vào tận cửa gate máy bay. Người mà chúng tôi đón hôm nay là một cô con
gái trẻ, ngồi trên xe lăn, trên người choàng một tấm chăn mỏng, được một cô
tiếp viên hàng không đẩy ra giao cho chúng tôi cùng túi hành lý nhỏ và một
phong bì đựng hồ sơ có in huy hiệu Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Trông cô ta tiều tụy,
xanh xao. Tôi giới thiệu và dịch vài lời chào mừng của bà Kari Mette. Khi đưa
tay nhận bó hoa hồng từ bà Kari Mette, cô gật đầu, lí nhí hai tiếng cám ơn.
Theo sau bà Kari Mette, tôi đẩy cô gái theo một lối đi riêng, không phải qua
kiểm soát. Một chiếc xe tản thương và cô ý tá chờ sẵn bên ngoài. Khi phụ dìu cô
gái lên nằm trên một băng ca trong xe, tôi mới biết là cô ta đang mang bầu.
Theo yêu cầu của cô ý tá, tôi ngồi luôn trên xe tản thương, tháp tùng về bệnh
viện. Bà Kari Mette lái xe chạy theo sau.
Ở
phòng nhận bệnh, khi nghe bà Kari Mette nói chuyện với vị bác sĩ, tôi mới biết
cô gái này có tên Lê thị Bích Kiều, 21 tuổi, bị hải tặc giam giữ ở một hoang
đảo ngoài khơi Thái Lan gần một năm, trước khi được một lực lượng tuần cảnh
phối họp với hải quân Thái cứu thoát. Cô ta đang mang thai hơn năm tháng, sức
khỏe rất yếu. Việc ưu tiên phải làm là giúp cô sớm hồi phục sức khỏe và bảo vệ
thai nhi.
Khi
trả lời một số câu hỏi của bác sĩ, cô luôn nhìn tôi bằng đôi mắt thật buồn và
ái ngại, Một vài câu hỏi cô ngại ngần không muốn trả lời. Tôi từ tốn bảo cô cứ
yên tâm, nếu điều nào chưa muốn nói ra, cô không cần thiết phải trả lời, tôi sẽ
liệu cách để nói lại với bác sĩ. Nhưng sau đó, tôi mới hiểu ra, người cô ngại
chính là tôi chứ không phải ông bác sĩ. Mặc dù trước khi bắt đầu làm việc, tôi
đã nói với cô là những người làm thông dịch như tôi đều phải ký giấy cam kết
taushetsplikt (bổn phận bảo mật những điều tai nghe mắt thấy). Cô được y tá đưa
vào phòng tắm rửa và thay áo quần bệnh viện. Khi trở ra, cô tươi tỉnh hơn, bây
giờ nhìn kỹ tôi thấy cô có khuôn mặt khá xinh, dù đôi mắt thật buồn. Theo cô y
tá đưa cô lên một phòng riêng ở tầng ba, tôi bảo y tá bật cao đầu chiếc giường
và đỡ cô ngồi dậy theo yêu cầu của cô, dịch cho cô nghe những điều dặn dò của
bác sĩ, hỏi cô thích ăn uống những gì để tôi nói lại với cô y tá, rồi chào cô
ra về, sau khi chúc cô ăn ngon và tối nay có một giấc ngủ thật bình yên. Cô
nhìn tôi, nói cám ơn rồi vội vàng cúi xuống. Thoáng qua đôi mắt, tôi biết cô
băn khoăn lo lắng, khi phải ở lại một mình. Tôi ghi số điện thoại trên mảnh
giấy nhỏ đưa cô y tá. Bảo là trường hợp bệnh nhân hay y tá cần điều gì, cứ gọi
cho tôi.
Kể
từ hôm ấy, ngoài bổn phận thông dịch tôi còn là người thân quen duy nhất của
cô. Hôm nào cô ngỏ ý thèm các thức ăn Việt nam, tôi bảo bà xã tôi làm rồi mang
đến cho cô, cùng mấy tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong, và tập truyện của ông Duyên
Anh mà cô thích đọc.
Sau
một tuần lễ, sức khỏe của cô khá hơn, nhưng y tá cho biết tâm trí chưa ổn định,
cô thường giật mình thức giấc rồi la hét, khóc lóc lúc nửa đêm. Cứ vài ngày,
bác sĩ Hauff từ Viện Tâm Thần đến thăm, cho cô quà, an ủi và khuyên cô hãy đọc
sách, xem TV, cần nghĩ tới đứa bé sắp chào đời, dù gì nó cũng là giọt máu của
mình. Có điều gì cần, hoặc cảm thấy nặng nề trong lòng, cô cứ nói ra mỗi lần
ông đến thăm.
Cô
không phải đến Sở Cảnh Sát để làm hồ sơ di trú như những người tị nạn khác, mà
do yêu cầu của Sở Tỵ Nạn, vị trưởng phòng Cảnh sát ngoại kiều đã đích thân đến
bệnh viện để gặp cô sáng hôm sau. Qua làm việc, tôi được biết cô gái sinh ra và
lớn lên ở Đà Lạt. Trước 75, mẹ cô là cô giáo và cha là một sĩ quan cấp tá, bị
mất tích tại Đà Nẵng khi Vùng I di tản. Vượt biên từ Rạch Giá cùng vị hôn phu.
Anh là con trai lớn của một người bạn cùng khóa Võ Bị với cha cô. Chiếc thuyền
nhỏ chở theo 47 người, ra khơi ba ngày thì gặp hai chiếc ghe đánh cá của Thái
Lan chặn lại. Cả bọn gần 20 tên mang dao búa và cả súng nữa, xông lên thuyền uy
hiếp. Anh tài công bị giết đầu tiên bằng búa đánh vào đầu, một vài thanh niên
khỏe mạnh có ý chống cự, liền bị chém chết. Chúng chia nhau lục soát trên tàu
và trên từng người để cướp vàng bạc, đồng hồ. Trước khi rời khỏi thuyền, chúng
phá hỏng máy, và bắt theo khoảng mười cô gái. Khi hai tên trong bọn kéo Kiều
đi, người vị hôn phu của Kiều xông đến định giật lại Kiều, bị chúng bắn bị
thương rồi đạp xuống biển, trước tiếng la khóc thất thanh của Kiều cùng những
cô gái khác.
Vừa
mới lên tàu, bọn hải tặc luân phiên hãm hiếp những cô gái bị chúng bắt theo.
Tiếng van xin la khóc quyện vào âm thanh của những ngọn sóng dường như cũng
đang thét gào phẫn nộ. Chỉ duy nhất có Kiều được thoát, không bị hiếp, nhưng bị
cột cả hai tay vào phía sau phòng lái, và phải chứng kiến hành động dã man, bỉ
ổi của bọn dã thú, cùng những khuôn mặt sợ hải đau đớn uất hận tột cùng của
những cô gái nạn nhân.
-
Tại sao cô lại được tha, không bị chúng hiếp? Anh cảnh sát ngạc nhiên hỏi.
- Làm sao được tha. Có lẽ thấy tôi có chút nhan sắc, nên tên thuyền trưởng dành riêng tôi cho hắn. Khi ấy hắn đang lái tàu! Cô gái sụt sùi.
Tối hôm ấy, cô đã bị cướp đi đời con gái. Qua một ngày kinh hãi, biết mình không thể chống cự, cô đã nằm im phó thác cho số phận. Trong khi thân xác bị dày vò, cô nghĩ đến cảnh người yêu vừa bị giết tức tưởi trưa nay, cắn chặt lưỡi giữa hai hàm răng ứa máu.
- Làm sao được tha. Có lẽ thấy tôi có chút nhan sắc, nên tên thuyền trưởng dành riêng tôi cho hắn. Khi ấy hắn đang lái tàu! Cô gái sụt sùi.
Tối hôm ấy, cô đã bị cướp đi đời con gái. Qua một ngày kinh hãi, biết mình không thể chống cự, cô đã nằm im phó thác cho số phận. Trong khi thân xác bị dày vò, cô nghĩ đến cảnh người yêu vừa bị giết tức tưởi trưa nay, cắn chặt lưỡi giữa hai hàm răng ứa máu.
Tay
thuyền trưởng hải tặc không đánh đập hành hạ cô như những cô gái khác. Hắn săn
sóc, mang cho cô một tô cháo cá nóng, nhỏ nhẹ dỗ dành cô ăn, nhưng cô không thể
nào nuốt nổi, dù bụng đang đói. Nằm thiếp đi cả một ngày trong phòng lái, khi
nghe tiếng ồn ào gọi nhau của bọn hải tặc, giật mình thức dậy, cô thấy tàu cặp
vào một hòn đảo.
Sau
khi ra lệnh cho đám thuộc hạ quăng neo, tay thuyền trưởng cõng cô trên lưng,
lội vào bờ. Cô ngạc nhiên rùng mình khi không thấy các cô gái khác. Số phận họ
ra sao? Cô bịt kín hai tai, nhưng tiếng van xin kêu khóc hãi hùng của ngày hôm
qua như muốn vỡ tung đầu óc. Cô tưởng tượng họ bị hiếp cho đến chết, rồi quăng
xác xuống biển. Thật thảm thương tội nghiệp. Nhưng dù sao họ cũng không phải
sống cả một đời thừa thãi trong nỗi dày vò, mặc cảm và vô vọng như cô. Biển
xanh sẽ ôm ấp vỗ về cả thân xác lẫn linh hồn họ. Là cánh hoa tả tơi duy nhất còn
sót lại sau một ngày đêm dông bão, cô ví mình chẳng khác nào rác rưởi tắp vào
một nơi hoang vắng. Cô tự hỏi, đó có phải là điều may mắn?
Anh
cảnh sát ngồi bất động nghe cô kể, thỉnh thoảng ngước mặt lên trần nhà để giấu
những giọt nước mắt. Tôi thầm tội nghiệp cho anh ta, một người sinh ra và lớn
lên trên một vương quốc an bình, giàu có, hà cớ gì phải khóc cho nỗi đau
thương, bất hạnh của dân tộc tôi. Chúng tôi dừng lại khi thấy cô gái sụt sùi.
Tôi đứng dậy đi lấy mấy tờ giấy soft cho cô lau nước mắt và mời cô một ly nước
saft.
-
Rồi đời sống của cô trên đảo ra sao trước khi cô được cứu thoát? Anh cảnh sát
hỏi.
- Tôi được đưa vào một cái hang đá khá lớn, có sẵn một số thức ăn, nước uống và cả áo quần cùng nhiều vật dụng mà có lẽ bọn họ cướp được từ những lần trước.
- Tôi được đưa vào một cái hang đá khá lớn, có sẵn một số thức ăn, nước uống và cả áo quần cùng nhiều vật dụng mà có lẽ bọn họ cướp được từ những lần trước.
Đó
là một đảo hoang. Một trong những “hậu trạm”. Cứ bốn, năm hôm, có khi cả tuần
lễ, bọn hải tặc trở về đây nghỉ ngơi đôi ngày, chia chác “chiến lợi phẩm”, rồi
lại ra đi. Tiếp tục những chuyến làm ăn khác, hoặc vào bờ lấy thêm nhiên liệu,
lương thực. Tay thuyền trưởng cao lớn, tóc phủ tới lưng, cả ngày chỉ mặc một
cái quần short ố vàng, phơi tấm thân trần đen đúa với đầy những hình xâm. Không
biết vì nghĩ là cô không hiểu tiếng Thái hay là bản tính ít nói, cả ngày hắn
lầm lì, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười. Hắn luộc tôm cá tươi ép cô ăn và bắt cô uống
rượu. Miệng hắn lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu. Đôi mắt đỏ ngầu. Rượu giúp hắn
trở thành con hổ đói cuồng bạo trên tấm thân liễu yếu của cô. Hắn lột hết áo
quần cô, làm nhiều cách hầu tạo kích thích, nhưng cả thân xác và tâm hồn cô đã
trở thành gỗ đá, lạnh lùng, không còn cảm giác. Chỉ biết nhắm mắt chịu đựng đau
đớn, để cho hắn ta mặc tình hành hạ.
Bọn
họ ra đi từ lúc trời chưa sáng. Khi cô thức dậy chung quanh vắng lặng, ngoài
tiếng sóng biển rì rào. Cảm giác da thịt rã rời. Phải ngồi khá lâu mới đứng dậy
được. Cô chui ra khỏi hang, trèo xuống hốc núi tìm đường ra biển. Hôm nay trời
nắng, biển êm. Nhìn biển mênh mông, trong gió nghe như có tiếng gọi tên mình,
cô giật mình nghĩ tới người yêu và những cô gái đồng hành bất hạnh. Cô xăn quần
lội xuống, vốc một vốc nước rửa mặt. Nước biển làm rát khóe mắt, nhưng giúp cô
tỉnh táo. Bỗng cô nghĩ đến cái chết. Chỉ cần lội ra xa để cho sóng cuốn đi là
cô sẽ gặp lại người tình ở đâu đó dưới đáy đại dương và sóng biển có thể rửa
bớt phần nào nhơ nhớp trên tấm thân, mà bao nhiêu lần, mẹ đã ôm cô dặn dò phải
cố giữ gìn, trước lúc từ biệt ra đi. Chợt nhớ tới mẹ, nhớ các em, cô đứng bất
động nghe lòng dạ bồi hồi.
Gió
từ biển khơi thổi tới như muốn an ủi vỗ về, giúp cô tìm lại một chút yên ả. Cô
bước lên đi dọc theo bờ biển. Tiếp tục nghĩ đến mẹ và hai đứa em nhỏ dại. Giờ
này không biết họ ra sao. Có biết mình đang lưu lạc trên một hoang đảo xa lạ
giữa trời biển mênh mông với tấm thân hoen ố ê chề. Hay là vẫn đang hy vọng đứa
con gái, người chị của mình đã đến được một xứ thiên đường nào, để có thể cứu
sống cả gia đình đang ở bước đường cùng. Bao nhiêu vốn liếng chắt chiu dành dụm
được, kể cả chiếc nhẫn cưới và sợi dây chuyền vàng mà bà ngoại đã đeo lên cổ mẹ
ngày vu quy, cũng chỉ đủ gom góp mua một cây vàng, và phải năn nỉ lắm mới được
đóng trước một nửa cho chủ tàu, nửa còn lại khi nào đến nơi sẽ trả. Sau ngày
cha cô vĩnh viễn không về, cùng nhiều đồng đội gởi xác thân ở một nơi vô danh
nào đó, rồi cả miền Nam đang trù phú, hạnh phúc một thời, bỗng dưng trở nên đói
nghèo, chia ly tan tác, cũng như những gia đình sĩ quan công chức khác, mẹ con
cô đã trải qua bao tháng năm cùng cực. Cô đã phải bỏ học, phụ mẹ buôn tảo bán
tần, mà cả nhà vẫn bữa đói bữa no. Nghĩ đến tương lai mịt mờ của mấy đứa con,
mẹ bàn với cô, chỉ còn cách duy nhất, là cô phải ra đi. Bao lần tìm được mối,
nhưng lo cho thân gái dặm trường, có biết bao điều bất trắc, cuối cùng bà rất
vui mừng khi có người yêu của cô, cũng là con của một người bạn cùng khóa với chồng,
cùng đi với con gái. Trước ngày đi, hai gia đình gặp nhau, tổ chức một lễ đính
hôn rất vội vàng, đơn giản.
Cô
bước đi những bước vô hồn trên những bọt sóng xô bờ, hình dung tới tuổi ấu thơ
và cả một thời cùng gia đình sống trong hạnh phúc. Nhớ mấy năm cha cô được đổi
về làm huấn luyện viên trường Võ Bị Đà Lạt, nơi ông đã gặp mẹ cô, khi còn là
một sinh viên sĩ quan trai trẻ, từng đứng trên đỉnh Lâm Viên với hào khí ngút
trời. Nơi ông cùng bè bạn đồng môn, đã quỳ xuống vũ đình trường trong ngày mãn
khóa, giữa không khí uy linh, đưa tay thề quyết bảo vệ núi sông. Cô cũng nhớ
tới đám bạn bè một thời nhỏ dại. Không biết những cánh chim non hồn nhiên ngày
ấy, giờ tản mác trôi dạt về đâu sau cơn bão lửa. Cũng như cô, tất cả đã mất
rồi, cả một bầu trời xanh bao la với bao nhiêu ước vọng thuở nào. Không bao giờ
còn tìm lại được!
Đầu
óc mơ hồ, tưởng mình đang đi tìm dấu vết tuổi thơ bên bờ hồ Xuân Hương thơ
mộng. Khi nghiêng mình để tìm ngôi nhà Thủy Tạ, nơi lần đầu hò hẹn người yêu,
cô bỗng giật mình nhận ra tảng đá trên hoang đảo, nơi cô bị giam lỏng từ mấy
hôm nay. Giấc mơ xưa ngắn ngủi vỡ tan như bọt biển. Ngồi bệt xuống cát, thẫn
thờ gọi mẹ, gọi em, và gọi tên người tình. Cô gọi đến khan cả cổ, để chỉ nghe
tiếng mình dội lại từ đại dương mênh mông xa thẳm, không tìm thấy chân trời. Cô
đã bật khóc.
o
O o
Tôi
định đưa tay bảo cô ngừng kể, để tôi kịp dịch lại cho anh cảnh sát, đang hồi
hộp ngồi chờ, nhưng chợt thấy cô cũng đang khóc. Anh cảnh sát đứng lên nháy
mắt, làm dấu cho tôi cùng bước ra ngoài để cho cô được tự nhiên. Khi trở vào,
anh cảnh sát nhờ tôi hỏi, nếu cô muốn bảo lãnh cho mẹ và các em còn ở Việt Nam,
anh sẽ trình lên Sở Ngoại Kiều, lập hồ sơ cho cô được ưu tiên. Có thể trong
vòng từ sáu đến tám tháng, cô sẽ được đoàn tụ với gia đình. Suy nghĩ một chập,
cô lắc đầu:
-
Em chưa chuẩn bị được tâm lý, không muốn mẹ và các em sẽ đau buồn vì những gì
em đã trải qua, và nhất là cái thai trong bụng, em vẫn còn đang giấu mẹ. Chờ
sinh đẻ xong, em mới bình tĩnh mà quyết định được. Mặc dù em rất nhớ mẹ và các
em.
Ngần ngừ một lúc cô ngõ ý muốn được Phòng Xã Hội cho mượn một số tiền để gởi về giúp gia đình, sau này đi làm cô sẽ trả. Anh cảnh sát gật đầu, hứa sẽ nói việc này với Phòng Xã Hội. Anh bắt tay cô, chúc sớm bình phục, gặp nhiều may mắn, và hẹn sẽ trở lại thăm cô để xin hỏi thêm cô ít điều bổ túc hồ sơ.
Ngần ngừ một lúc cô ngõ ý muốn được Phòng Xã Hội cho mượn một số tiền để gởi về giúp gia đình, sau này đi làm cô sẽ trả. Anh cảnh sát gật đầu, hứa sẽ nói việc này với Phòng Xã Hội. Anh bắt tay cô, chúc sớm bình phục, gặp nhiều may mắn, và hẹn sẽ trở lại thăm cô để xin hỏi thêm cô ít điều bổ túc hồ sơ.
Hai
hôm sau, qua điện thoại từ Phòng Xã Hội, tôi đến nhận số tiền 10.000 kroner
(khoảng 1.200 USD), để giao lại cho cô và yêu cầu cô ký tên vào biên nhận. Tôi
cũng mang đến biếu cô mấy trái xoài chua, lần trước cô bảo là cô rất thèm. Gặp
lại tôi, cô tỏ ra mừng rỡ. Lần đầu tiên tôi thấy cô nhoẻn miệng cười. Cô bảo cô
rất buồn và thấy cô đơn, vì không có tôi cô chẳng biết nói chuyện cùng ai. Cô
ngạc nhiên và thoáng một chút xúc động khi tôi đưa cho cô số tiền của Phòng Xã
Hội, và bảo đó là tiền cô được cấp, chứ không phải mượn. Tôi giải thích thêm về
những trợ cấp khác dành cho người tỵ nạn lúc ban đầu và hằng tháng sau này,
cũng như trợ cấp việc sinh đẻ và nuôi con. Tôi bảo cô yên tâm, đừng bận tâm gì
về chuyện tiền bạc. Cô càng vui và tỏ ra thân thiện hơn khi nghe tôi bảo trước
đây tôi cũng là lính, sau gần 8 năm tù trở về, vợ con cũng khốn cùng như gia
đình cô. Tôi kể chuyện gia đình tôi vượt biên nhưng may mắn được tàu Na-uy vớt,
mới đến Na-uy tám tháng, nhưng mọi việc tạm thời ổn định. Cô nhớ tới cha cô,
đôi mắt sáng lên và say sưa kể cho tôi nghe những ngày cô theo cha ra đơn vị,
hoặc cùng mẹ vào trường Võ Bị tham dự các buổi lễ ra trường. Khi tôi đứng dậy
cáo từ, cô viết tên và địa chỉ của mẹ cô, nhờ tôi gởi hết số tiền còn nguyên
trong bì thơ về cho mẹ. Trong mắt cô sáng lên niềm vui.
Một
lần cô ngỏ ý muốn học tiếng Na-uy để giết thì giờ. Tôi bảo là ở Na-uy vừa mới
có cuốn tự điển Nauy-Việt, tôi sẽ liên lạc Phòng Xã Hội để xin cho cô. Hai hôm
sau, tôi mang cuốn tự điển đến, chỉ cho cô cách sử dụng, nói và viết vài câu
đơn giản. Cô khá thông minh nên hiểu rất nhanh. Cô còn nhờ tôi viết cho cô vài
câu tiếng Na-uy. Trong đó có một câu cô bảo là lời một bản nhạc nào đó mà cô
rất thích: “Ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”.
o
O o
Khi
được biết là sẽ sinh con trai, cô vui lắm, nhưng ngay sau đó tôi thấy cô ngồi
thẫn thờ, suy nghĩ mông lung. Gần tới ngày cô sinh, tôi xin phép cô cho bà xã
tôi đến thăm, để hướng dẫn chỉ vẽ cho cô ít nhiều kinh nghiệm sinh đẻ mà vợ tôi
đã trải qua. Hơn nữa, khi sinh đẻ, có một người đàn bà thân quen bên cạnh cũng
an tâm. Biết cô ái ngại, nên tôi nói trước là vợ tôi hoàn toàn không biết gì về
hoàn cảnh của cô, và tất nhiên tôi không hề tiết lộ điều gì. Tôi sẽ nói với vợ
tôi là chồng cô còn ở trại tị nạn Thái Lan, sẽ được định cư sau. Ngần ngừ một
lúc, cuối cùng cô gật đầu. Cuối tuần, vợ chồng tôi đến thăm. Vợ tôi mang đến
cho cô một ít thức ăn Việt nam và mấy bộ áo quần con nít. Đàn bà dễ thông cảm
với nhau, nhất là vợ tôi sinh mấy đứa con cũng không có mặt chồng, vì tôi bận
tham dự hành quân, không về kịp. Tôi ra ngoài, để cho hai người đàn bà dễ nói
chuyện sinh đẻ. Cô sinh vào ban đêm, lúc trời đã vào đông. Tuyết rơi kín cả
khung trời. Vợ chồng tôi đến phòng sinh lúc cô đau bụng. Vợ tôi ở bên cạnh cô,
còn tôi ngồi ngoài phòng đợi. May mắn là cô sinh rất nhanh.
Khoảng
hơn 30 phút, tôi đã nghe tiếng con nít khóc. Khi mọi việc đã xong, nghe tiếng
vợ gọi, tôi bước vào chúc mừng cô. Thằng bé đang nằm trên ngực mẹ. Tôi thấy cô
khóc. Không biết đó là những giọt nước mắt xót xa hay hạnh phúc.
Sau
một tuần ở bệnh viện, mẹ con cô chuyển đến một khách sạn, được phòng xã hội
mướn cho cô tạm trú một thời gian, vì chưa tìm được căn nhà thích hợp cho cô.
Khách sạn khá sang trọng, nằm không xa bệnh viện, để tiện cho các y tá đến thăm
và chăm sóc mẹ con cô.
Mấy
ngày sau, tôi đến khách sạn cô ở. Không phải để thăm cô mà để làm thông dịch
cho bác sĩ Hauff và nhân viên phòng xã hội. Họ mang đến cho con cô nhiều quà
tặng. Ai cũng ngạc nhiên và thích thú khi thấy cô biết nói vài câu ngắn bằng
tiếng Na-uy. Bác sĩ Hauff hỏi là cô có cần ông giúp điều gì nữa không, cô bập
bẹ trả lời: “tôi sẽ nói với ông sau”. Tuy không đúng hẳn, nhưng mọi người đều
hiểu được.
Ngày
đầy tháng, vợ tôi nhớ và nhắc tôi đến thăm mẹ con cô. Chúng tôi ghé siêu thị
chọn mua một món quà mừng thằng bé. Bấm chuông phòng, cửa không mở. Gõ nhẹ cũng
không thấy lên tiếng. Tôi đến văn phòng khách sạn hỏi. Họ cho biết là cô vừa
mới chuyển đi. Tôi gọi hỏi Phòng Xã Hội, họ cho biết là cô đã chuyển đi một thành
phố rất xa, và theo yêu cầu của cô, họ không tiết lộ địa chỉ mới cho bất cứ một
ai. Sau một thoáng ngạc nhiên, tôi chợt nhớ đến lời một bài ca nào đó mà cô đã
nhờ tôi viết ra bằng tiếng Na-uy và chỉ cho cô đọc đi đọc lại nhiều lần: “ngày
mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”. Trên đường về, bà xã tôi thắc mắc tại sao cô lại
chuyển đi sớm và không cho chúng tôi hay. Tôi lắc đầu, mặc dù tôi đã vừa mới
hiểu ra.
Từ
hôm ấy, tôi không bao giờ gặp lại cô. Vài lần nhớ tới cô, tôi định hỏi thăm qua
một số người quen ở các thành phố khác, hoặc gọi cho Sở Tỵ Nạn. Nhưng rồi tôi
quyết định không tìm, vì có lẽ cô không muốn gặp lại tôi, một người biết quá
nhiều về cô.
o
O o
Bích Kiều đến đúng giờ hẹn. Khi thấy chiếc taxi đỗ ngay trước cổng nhà, vợ chồng tôi chạy ra đón. Tôi cũng nóng lòng muốn xem lại dung nhan của người con gái xinh đẹp nhưng găp phải điều bất hạnh của hai mươi lăm năm trước. Bây giờ chắc tuổi cũng đã 45, 46. Vợ chồng tôi ngạc nhiên khi thấy Bích Kiều vẫn còn trẻ đẹp. Cặp kiếng cận làm tăng nét tao nhã quí phái. Cô ôm chầm chúng tôi, rồi lấy kiếng xuống để chùi nước mắt.
Bích Kiều đến đúng giờ hẹn. Khi thấy chiếc taxi đỗ ngay trước cổng nhà, vợ chồng tôi chạy ra đón. Tôi cũng nóng lòng muốn xem lại dung nhan của người con gái xinh đẹp nhưng găp phải điều bất hạnh của hai mươi lăm năm trước. Bây giờ chắc tuổi cũng đã 45, 46. Vợ chồng tôi ngạc nhiên khi thấy Bích Kiều vẫn còn trẻ đẹp. Cặp kiếng cận làm tăng nét tao nhã quí phái. Cô ôm chầm chúng tôi, rồi lấy kiếng xuống để chùi nước mắt.
-
Không ngờ Kiều bây giờ còn đẹp hơn hồi xưa nhiều lắm. Sao đi có một mình ên còn
ảnh thì giấu kỹ ở đâu rồi không cho trình diện?
Câu
nói đùa của bã xã tôi làm cô bớt xúc động, nở nụ cười sau một thoáng thẹn
thùng:
-
Em vẫn còn độc thân mà! Hôm nay xuống đây nhờ anh chị làm mai đây.
Chúng
tôi đi quanh khu vườn sau nhà. Bà xã muốn khoe mấy cụm hồng vàng vừa mới nở
hoa, trước khi dắt tay cô bước vào phòng khách. Tôi mang nước ra mời và ngồi
nghe hai người đàn bà nói chuyện trang điểm, phấn son xong mới lên tiếng:
- Vậy là Kiều đang ở Trondheim. Tôi thấy địa chỉ trong tấm thiệp cưới. Ngày ấy, tự dưng Kiều biến mất, làm bọn tôi cứ nghĩ là nàng trích tiên đã ngao ngán cảnh trần gian mà bay lại về trời rồi chứ. Cô cười bẽn lẽn:
- Vậy là Kiều đang ở Trondheim. Tôi thấy địa chỉ trong tấm thiệp cưới. Ngày ấy, tự dưng Kiều biến mất, làm bọn tôi cứ nghĩ là nàng trích tiên đã ngao ngán cảnh trần gian mà bay lại về trời rồi chứ. Cô cười bẽn lẽn:
-
Hôm nay đến cũng để xin lỗi anh chị đây. Ngày ấy lòng em còn đau xót lắm, nên
muốn đi đến một nơi thật xa, không muốn gặp bất cứ người Việt nào và nhất là
những ai đã biết về mình. Mặc dù em rất thương quí và mang ơn anh chị.
Tôi
cười:
-
Tôi biết, nên chỉ thương chứ có nỡ lòng nào mà trách. Chắc Kiều còn nhớ cái câu
tiếng Na-uy “Ngày mai tôi muốn bỏ đi thật xa” mà Kiều nhờ tôi viết ra và chỉ
cho Kiều đọc đi, đọc lại bao nhiêu lần. Khi ấy Kiều bảo rất thích câu ấy trong
một bài hát mà Kiều hay hát? Nhờ đó mà tôi hiểu được, nên không có ý tìm Kiều.
o
O o
Đúng
là cô đã đi thật xa, một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi thành phố Ålesund. Ở đó
không có một người Việt nào sinh sống. Chính quyền và dân chúng rất tốt. Mẹ con
cô được chăm sóc chu đáo. Một năm sau cô bảo lãnh mẹ và hai cậu em sang đoàn
tụ. Gia đình sống trong hạnh phúc. Đứa bé lớn lên trong vòng tay yêu thương của
mọi người. Cháu được đặt tên Trần huy Bách, và trong giấy khai sanh có cha là
Trần Huy Trác. Tên người vị hôn phu của Kiều. Anh đã bị chính cha ruột của
thằng bé giết chết thảm thương rồi vất xác xuống biển. Kiều giấu kín mẹ và các
em điều đau thương này, nên đến lúc qua đời, mẹ cô vẫn tin đứa cháu ngoại duy
nhất của mình là con của Trác. Bà mất đột ngột sau cơn bệnh tim, khi sang Na-uy
được mười sáu năm.
Được
chính phủ trợ cấp, cho học bổng, và nhờ mẹ giúp trông con cùng mọi việc trong
nhà, nên Kiều và hai em được đi học. Cả ba chị em đều xong đại học. Hai cậu em
đang là kỹ sư, còn cô làm y tá trong bệnh viện. Khi hai cậu em được nhận vào
trường NTH, một đại học kỹ thuật bách khoa nổi tiếng tại thành phố Trondheim,
miền trung Na-uy, cả nhà đã di chuyển về đây sau sáu năm ở Ålesund. Cháu Huy
Bách, con của Kiều cũng vừa tốt nghiệp ở trường này mùa hè năm ngoái.
-
Vợ chồng tôi mừng cho Kiều, cho sự thành công của mẹ con Kiều cùng hai cậu em,
và cũng xin chia buồn về việc bà cụ đã ra đi. Tiếc là chúng tôi không có dịp
được gặp bà.
Đang
vui, bỗng Kiều xúc động:
-
Tất cả đều nhờ mẹ em. Cả một đời thiệt thòi, chịu đựng vất vả với con cháu. Em
vẫn ân hận là em đã phải nói dối với bà về chuyện của cháu Bách.
-
Tôi nghĩ Kiều làm như thế là đúng. Ít nhất là không làm đau lòng thêm những
người ruột thịt vốn đã chịu quá nhiều nhục nhằn, khốn khổ. Tôi tin là bác ra đi
thanh thản, không có trách gì Kiều về sự việc ấy đâu. Tôi nói để an ủi.
Bà
xã tôi nãy giờ không hiểu hết những gì chúng tôi trao đổi, hỏi Kiều:
-
Sao cô lại không giữ tên Kiều mà lấy tên Bích. Tôi thấy tên Bích Kiều đẹp lắm.
Ngày xưa gần nhà tôi ở Nha Trang cũng có tiệm uốn tóc Bích Kiều. Mấy cô con gái
đều đẹp. Tôi quen cả hai chị em.
-
Dạ, em thấy cuộc đời nàng Kiều của ông Nguyễn Du sao mà ba chìm bảy nổi quá, mà
dường như cũng đã vận vào em, em sợ nên đổi tên Bích, cũng là chữ lót của em.
Tôi
cười phụ họa:
-
Nàng Kiều nào cũng đã chết rồi. Bây giờ, đang ngồi trước mặt tôi là Bích. Một
cô Bích hoàn toàn khác. Chúng tôi rất mừng được như vậy. Xin lỗi, đáng lẽ ra
không nên gọi cô là Kiều nữa. từ bây giờ chúng tôi gọi tên Bích nghe.
-
Có sao đâu anh. Hai đứa em của em cũng gọi em là chị Kiều mà. Ngoài gia đình,
chỉ có anh chị là biết cái tên này của em. Chuyện xưa cũng đã qua rồi. Em muốn
anh chị cứ gọi em là Kiều như ngày trước. Hơn nữa, em biết, ngày ấy anh chị
cũng thương yêu cô Kiều đó lắm, phải vậy không?
Cả
ba chúng tôi đều cười.
Kiều
nhìn đồng hồ trên tường, khi nghe tiếng chuông báo giờ. Không biết vì không
muốn nhắc lại chuyện cũ, hay là sợ không còn nhiều thời gian, cô bắt đầu một
câu chuyện khác. Cô mở xách tay lấy ra mấy tấm ảnh đưa cho chúng tôi xem. Ảnh
của Bách, con trai cô vừa chụp với cô vợ tương lai trong ngày lễ đính hôn hơn
ba tháng trước. Một cô gái Việt nam. Cả hai cô cậu đều đẹp, mũi cao, đôi mắt
to, vầng trán thoáng lên nét thông minh.
-
Hai cháu rất xứng đôi vừa lứa! Vợ chồng tôi khen.
Cô
cho biết cô dâu tương lai là một dược sĩ vừa mới tốt nghiệp, con gái út của vợ
chồng một vị giáo sư trước 75, được con bảo lãnh sang Na-uy, và bây giờ lớn
tuổi đã về hưu. Ông bà đang sống ở Oslo. Gia đình nề nếp, đạo đức, có năm người
con, tất cả đều thành đạt. Cô nhờ vợ chồng tôi, tuổi tác ngang với cha mẹ cô
dâu, đứng ra thay mặt nhà trai trong ngày đám cưới. Nhưng điều quan trọng hơn,
theo cô, là để cho cháu Bách, và chính cô nữa, được tự tin, ấm áp hơn về phía
gia đình mình. Bởi vợ tôi là người chứng kiến khi Bách ra đời, còn tôi là người
đồng hương duy nhất biết rõ về Bách, về những tình huống để có Bách hiện diện
trên thế gian này.
-
Sự có mặt của anh chị trong ngày đám cưới cháu Bách, là một kỷ niệm thiêng
liêng quý giá đối với mẹ con em. Bởi vì khi nhìn thấy anh chị, em sẽ có cảm
giác như là đang có anh Trác bên cạnh. Xin lỗi anh chị, em cũng đã nói dối với
cháu Bách, anh là người duy nhất ở Na-uy này biết chuyện Trác, và tội nghiệp,
cháu Bách vẫn tin anh Trác là ba của nó. Em thường bắt gặp cháu đứng thật lâu
trước tấm ảnh của anh Trác trên bàn thờ.
-
Vậy nhỡ cháu Bách hỏi tôi về Trác, tôi biết nói gì với cháu?
Nghĩ
ngợi một lúc, Kiều lên tiếng:
-
Em chỉ nói với cháu Bách, là ngày xưa anh ở trong quân đội, nên biết ba của anh
Trác là ông nội cháu, thế thôi. Chứ lúc ấy anh Trác còn nhỏ lắm. Em thiết tha
mong anh chị giúp em. Vì trong lúc này, em cảm thấy thật lo sợ và cô đơn. Những
hình ảnh hãi hùng ấy cứ tưởng đã quên được từ lâu rồi, vậy mà bây giờ nó lại
hiện lên liên tục, ngay cả trong giấc ngủ của em. Thú thực, ban đầu em không có
ý định gặp anh chị, nhưng càng gần ngày đám cưới cháu, em càng thấy lòng bất
an. Cuối cùng bất ngờ em đã nghĩ đến anh chị, người đã biết tường tận hoàn cảnh
của mẹ con em, bỗng dưng em thấy nhẹ nhàng, như vừa giải tỏa được những gì cứ
phải chôn giấu, đè nặng mãi trong lòng.
Nhớ
tới hai người em trai của cô, vợ tôi hỏi:
-
Còn hai cậu em của cô bây giờ ra sao. Đã có gia đình riêng hay vẫn ở chung với
cô?
-
Cậu lớn sống chung với cô bạn gái người Na-uy hơn hai năm thì chia tay, còn cậu
út vẫn chưa lập gia đình. Tuy nhiên, hai cậu đều ở riêng.
o
O o
Cuối
cùng, vợ chồng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi London. Phải gọi sang xin lỗi và
giải thích cho vợ chồng cô con gái, bảo đây là một việc ba má cần làm để giúp
cho những người bất hạnh có thể tìm lại ít nhiều hạnh phúc. Lễ thành hôn được
tổ chức buổi sáng thứ Bảy. Chúng tôi đến khách sạn Royal Christiania khi trời
vừa mới trải qua một cơn mưa hạ. Ánh nắng bắt đầu chói chang rọi qua những tàn
cây tạo thành những vệt lung linh trên các bãi cỏ xanh điểm những chấm vàng rực
rỡ của hoa løvetann đang mùa nở rộ. Họ nhà trai dùng khách sạn này, nơi mẹ con
Kiều và hai cậu em đang ở mấy hôm nay, làm “điểm xuất phát”. Từ Trondheim
xuống, nên họ chỉ có bốn người. Thêm một cậu người Na-uy ở Oslo, bạn học của Bách
làm phụ rể. Vợ chồng tôi đến với hai cô con gái và ba đứa cháu, để bưng các mâm
lễ vật, theo yêu cầu của Kiều.
Lần
đầu tiên chúng tôi gặp Bách. Cậu bé ra đời vào một đêm đông tuyết giá, trong
nỗi cô đơn và xót xa của mẹ, chỉ có vợ chồng tôi, hai người đồng hương xa lạ,
có mặt và nghe tiếng khóc đầu đời, bây giờ là một thanh niên tuấn tú, có học,
chân thật hiền lành. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là Bách nói tiếng Việt rất
giỏi. Bất giác, tôi nhớ tới những điều Kiều kể với vị cảnh sát ngoại kiều trước
kia trong bệnh viện. Đầu óc như mơ hồ có tiếng sóng biển thét gào phẫn nộ, và
hình dung tới gã hải tặc Thái Lan có mái tóc phủ xuống lưng, trên người đầy
những hình xâm với đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trong men rượu. Bỗng tôi giật
mình với cảm giác như vừa làm điều phạm tội. Cố gắng hướng tâm trí tới những
điều thánh thiện, tốt đẹp khác để xua đuổi hết những hình ảnh đen tối ấy vào
giờ phút mọi người đang cần có niềm vui và hạnh phúc.
Lễ
thành hôn đã diễn ra tốt đẹp. Ông bà sui của Kiều đều là nhà giáo, hiểu biết và
tôn trọng nề nếp cũ. Mọi nghi thức hôn lễ theo tập tục do ông bà hướng dẫn khá
tỉ mỉ. Con cháu đều thành đạt, lễ phép. Tôi mừng cho Kiều, và nhất là cho cháu
Bách đã may mắn là con rể của gia đình này. Có lẽ thấu hiểu hoàn cảnh của Kiều
với lòng mến mộ, sau khi lạy ông bà trên bàn thờ gia tộc, ông giáo hướng dẫn cô
dâu chú rể đến dâng rượu và xin lạy mẹ của Bách hai lạy. Ông giải thích, một
lạy cảm tạ công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ, mất chồng từ khi còn rất trẻ,
nhưng không bước thêm một bước nào nữa mà dành hết cuộc đời cho đứa con duy
nhất của mình. Một lạy xin mẹ nhận thay cha, để hai con tưởng nhớ đến người cha
bất hạnh, sớm lìa đời khi chưa thấy mặt con. Khi vợ chồng cháu Bách mời rượu,
nói những lời cám ơn thật cảm động, Kiều âu yếm nhìn hai con, định nói điều gì,
nhưng rồi nghẹn ngào, sau một lúc mới nở được nụ cười trong ràn rụa nước mắt.
Tôi thấy lòng bâng khuâng. Thầm mong đó không phải là những giọt nước mắt xót
xa mà là niềm vui của hạnh phúc.
Không
khí bỗng lắng xuống. Mọi người đều xúc động. Kiều ngước lên, đúng vào lúc tôi
quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt của chính mình.
©
Phạm Tín An Ninh
No comments:
Post a Comment