Thứ
sáu, ngày 03 tháng tám năm 2012
Người
ta thường nói về “tham vọng bá quyền” của Trung Quốc như một lời cảnh báo đối
với thế giới, nhất là với các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
Ít người nói với chúng ta rằng tham vọng đó không phải là nguy cơ mà là một
thực tế; và ở vị trí nước láng giềng của Trung Quốc, Việt Nam
cần có sự chuẩn bị và thái độ ứng xử thích hợp.
Việt Nam
- nạn nhân khó tránh khỏi
Bá
quyền, theo nghĩa chung, được định nghĩa là quốc gia siêu cường duy nhất, mạnh
tới mức chi phối tất cả các nước khác trong hệ thống - khu vực nếu là bá quyền
khu vực, và thế giới nếu là bá quyền toàn cầu.
Từ
trước đến nay, chưa một quốc gia nào trở thành bá quyền toàn cầu. Theo học giả
người Mỹ John Mearsheimer, trở ngại chính là “khó khăn trong việc áp đặt quyền
lực của mình lên một nước đối thủ nằm ngoài khu vực của mình”. Ví dụ, Mỹ tuy là
nước mạnh nhưng không thể khống chế châu Âu theo cách mà Mỹ áp dụng ở châu Mỹ.
Ngoài
ra, nếu bị đại dương ngăn cách, các nước thường không có khả năng tấn công
chống lại nhau: “Biển rộng là trở ngại lớn, phát sinh ra nhiều vấn đề triển
khai lực lượng cho bên tấn công”. Mearheimer lấy Anh và Mỹ làm ví dụ. Hai
nước này chưa bao giờ bị một quốc gia lớn khác xâm lược. Cũng vì bị đại dương
cản bước, mà Mỹ chưa bao giờ xâm lược châu Âu và Đông Bắc Á, còn Anh không cố
gắng tấn công quân sự vào châu Âu lục địa.
Từ
đây, Mearsheimer đưa ra một khẳng định: Cách tốt nhất mà một nước lớn có thể
trông đợi là trở thành bá quyền khu vực và kiểm soát các quốc gia kề cận nó, có
chung đường biên giới với nó, các quốc gia mà nó có thể tiếp cận dễ dàng bằng
đường bộ.
Địa
vị của Trung Quốc hiện nay ở châu Á cho thấy đất nước hơn một tỷ dân này đã và
đang ở tâm thế trở thành bá quyền khu vực, và sẽ là một thực tế dễ hiểu, dễ lý
giải nếu họ muốn chi phối, kiểm soát các quốc gia láng giềng, trong đó có Việt
Nam. Hơn thế nữa, với những đặc thù về địa chính trị, địa kinh tế của mình,
Việt Nam không
tránh khỏi là đối tượng đặc biệt đáng lưu ý trước mắt bá quyền khu vực.
Trở thành bá quyền - ham muốn cố hữu trong quan hệ quốc tế
Cần
phải khẳng định ngay rằng, xu hướng trở thành bá quyền không phải là tham vọng
của riêng Trung Quốc. Nó là ham muốn của bất kỳ một nước nào có vai trò nhất
định khi tham gia vào quan hệ quốc tế (Nga, Pháp, Đức, Italy,
Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v...)
Từ
năm 1933, nhà nghiên cứu chính trị quốc tế Frederick Schuman đã viết rằng, do
không có một cơ quan quyền lực trung ương đứng trên lập ra và thực thi các quy
tắc ứng xử trên toàn cầu, nên mỗi quốc gia đều đơn độc, dễ bị tổn thương và do
đó buộc phải ích kỷ.
Nước nào cũng phải tự cứu lấy mình. Điều này luôn đúng, cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn, bởi vì nếu một quốc gia bị thua thiệt trước mắt thì rất có thể họ sẽ không tồn tại được lâu dài. Cách tốt nhất để tự cứu là phải trở nên hùng mạnh hơn các nước khác trên nhiều phương diện, không chỉ là quân sự hay kinh tế. Kịch bản lý tưởng là trở thành bá quyền trong hệ thống, nếu không đạt tới phạm vi toàn cầu thì cũng phải là khu vực.
Nước nào cũng phải tự cứu lấy mình. Điều này luôn đúng, cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn, bởi vì nếu một quốc gia bị thua thiệt trước mắt thì rất có thể họ sẽ không tồn tại được lâu dài. Cách tốt nhất để tự cứu là phải trở nên hùng mạnh hơn các nước khác trên nhiều phương diện, không chỉ là quân sự hay kinh tế. Kịch bản lý tưởng là trở thành bá quyền trong hệ thống, nếu không đạt tới phạm vi toàn cầu thì cũng phải là khu vực.
Thế
nên, không có gì lạ nếu Trung Quốc muốn thực hiện tham vọng bá quyền ở châu Á
ngày nay. Lợi ích của họ càng bành trướng, thì họ càng có xu hướng vươn tới địa
vị bá quyền hơn nữa, để bảo vệ bằng được lợi ích đó.
Không
nên đặt câu hỏi tại sao Bắc Kinh luôn muốn mở rộng tầm ảnh hưởng kinh tế -
chính trị - quân sự tại khu vực châu Á Thái Bình Dương. Bởi vì dù có an toàn
đến đâu thì một nước lớn cũng không cảm thấy đủ về an ninh; và càng lớn mạnh,
họ càng cần tăng cường an ninh để duy trì địa vị của mình.
Nước lớn kìm chân nhau, nước nhỏ tận dụng
Cùng
với xu hướng khao khát trở thành bá quyền, mỗi nước lớn đều có xu hướng ngăn
cản nước lớn khác xâm nhập vào vùng ảnh hưởng của mình. Ví dụ, Mỹ - bá quyền
khu vực Tây bán cầu - tất yếu phải tìm cách kiểm soát Trung Quốc - nước đang có
tham vọng bá quyền ở châu Á - bởi sợ Trung Quốc xâm phạm vào sân sau của Mỹ.
Hơn
nữa, theo John Mearsheimer, “nếu một nước có khả năng làm bá quyền xuất
hiện, các nước lớn khác trong khu vực đó sẽ tìm cách kiềm chế”. Từ nhận
định đó, ta có thể thấy rằng hai nước lớn khác ở Đông Á là Nhật Bản và Hàn Quốc
không dễ chấp nhận để Trung Quốc vươn lên địa vị bá quyền khu vực. Áp dụng
lý thuyết này, Việt Nam có thể tận dụng quan hệ với các nước lớn trong khu vực
(Nhật Bản, Hàn Quốc) và thế giới (Mỹ, Anh, Pháp) để gây rào cản đối với Trung
Quốc.
Tất
nhiên, điểm cốt yếu là, để chống lại bá quyền, các nước đối tượng của bá quyền
không còn cách nào khác là phải liên tục nâng cao vị thế của mình trên trường
quốc tế, thúc đẩy sự thịnh vượng về kinh tế.
Một
điều mà những quốc gia nạn nhân cần đặc biệt lưu ý, là không có sự mặc cả
giữa bá quyền và đối tượng của bá quyền. Nói cách khác, tham vọng bá quyền
của một nước lớn sẽ không bao giờ dừng lại, chính bởi cái nguyên tắc “tự cứu”
nói trên. Nước nhỏ không thể thỏa thuận với nước lớn rằng sự bành trướng của
nước lớn sẽ chỉ giới hạn ở một mức độ nào đó để không ảnh hưởng tới nước nhỏ.
Bá
quyền luôn không đơn thuần là sức mạnh bạo lực, vì vậy, để có được bá quyền,
không thể thiếu được cách cư xử mang tính đồng thuận, chấp nhận và góp phần,
một phần hoặc toàn thể, của những kẻ bị bá quyền.
Và cách ứng xử của Việt Nam
Frederick
Schuman viết rằng, trong chính trị quốc tế, Chúa chỉ cứu những ai biết cách tự
cứu mình, và để tự cứu, không loại trừ khả năng các nước lập liên minh với
nhau. Nước càng yếu thế về kinh tế - quân sự, thì càng phải phát triển sức
mạnh ngoại giao và sự liên kết với các nước khác. Điều tối kỵ là một quốc gia
vừa nhỏ yếu vừa bị cô lập trên thế giới.
Như
TS. quan hệ quốc tế Vũ Hồng Lâm nhận định, nếu những sức ép mà Trung Quốc gây
cho Việt Nam được dư luận quốc tế quan tâm thì điều đó sẽ khiến Trung Quốc phải
cân nhắc hơn trong quan hệ với Việt Nam, nhất là khi Trung Quốc lại luôn muốn
tự vẽ mình như một nước lớn thân thiện.
“Trỗi
dậy hòa bình”, không gây hấn với các quốc gia khác, dồn mọi nỗ lực vào tăng
trưởng kinh tế - đó là hình ảnh mà Bắc Kinh ra sức tạo dựng trước thế giới.
Trong một bài diễn văn kéo dài hai tiếng rưỡi đồng hồ tại Đại hội Đảng lần thứ
17, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào phát biểu chi tiết về các vấn đề kinh tế,
tài chính, công nghiệp, xã hội và môi trường, tuy nhiên hoàn toàn bỏ qua lĩnh
vực ngoại giao.
Nhưng
trên thực tế, các chính sách kinh tế - đầu tư - thương mại mà Bắc Kinh thi hành
tại Đông Nam Á, những đòi hỏi vô lý về chủ quyền ở Biển Đông, cùng những tranh
cãi liên miên về đường biên giới với Nga và Ấn Độ, đã khiến Trung Quốc mang
hình ảnh của một láng giềng nước lớn, bành trướng và khó chịu.
Việt
Nam và các nước
trong khu vực không thể trông đợi Trung Quốc sẽ “trỗi dậy hòa bình” như chủ
thuyết ngoại giao (chưa bao giờ được công bố) của họ. Cũng vậy, Trung Quốc “khó
lòng tơ tưởng đến việc họ có thể lặng lẽ bước lên vũ đài thế giới mà không gây
ra mảy may chú ý nào”. Đó là nhận định của Fareed Zakaria trong cuốn “The
Post-American World” (Thế giới hậu Mỹ), có lẽ cũng là điểm mà Việt Nam
- nước láng giềng liền kề biên giới Trung Quốc - không nên bỏ qua.
No comments:
Post a Comment