23-8-2012
Khi nhắc đến quan hệ giữa Việt Nam
và Trung Quốc, giới lãnh đạo CSVN thường nhấn mạnh đến 16 chữ vàng “Láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” do
Giang Trạch Dân thay mặt lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) tặng Lê Khả Phiêu,
đại diện giới lãnh đạo CSVN đầu năm 1999 nhưng không hề nhắc đến 12 lời nguyền
rủa “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học” do Đặng Tiểu
Bình, thay mặt CSTQ tặng CSVN vào cuối năm 1978 trong chuyến đi thăm các quốc
gia Đông Nam Á của y.
Gọi là lời nguyền rủa vì họ Đặng
không viết ra để gởi Bộ Chính trị đảng CSVN qua đường ngoại giao mà do chính
giọng Tứ Xuyên của y phát biểu trên đài truyền hình cho nhân dân Đông Nam Á và
thế giới cùng nghe.
Lý do nguyền rủa
Bấm :
:https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgWp_KtiCQTkCaskWUN7B-wL639UmTI_VS066edp1HqIzfxAQ_mCWvDj30_nx2363h8a-frxn-A_rnawKghwdVX80XGqTckZ5d9G0bndVOaLfws-xbcJrK6oVrtlrCXahEZwpZruE7qCJHN/s320/Hochiminh-dangtieubinh.jpg
Phải công tâm mà nói, mặc dù dùng
chữ “Việt Nam” họ Đặng nhắm vào đảng CSVN chứ không hàm ý dân tộc Việt Nam hay
nhân dân Việt Nam. Và cũng công tâm mà nói, sau khi tìm hiểu kỹ mối quan hệ
giữa hai đảng CS, việc Đặng Tiểu Bình rủa đảng CSVN là “côn đồ” không phải là
quá đáng.
Trung Quốc đổ quá nhiều xương máu,
góp quá lớn công sức và của cải cho chiến thắng của đảng CSVN. Trong tác phẩm Trung
Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả
Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Quốc trong
chiến tranh Việt Nam:
“Mặc dù đang mạnh dần, Trung Quốc
vẫn lo ngại sự hiện diện ngày càng mở rộng của Mỹ tại Đông Nam Á. Trong chiến
tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung
Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa
quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), phòng không,
làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều
khiển các giàn hỏa tiển phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa
chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp
cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ.
Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95
trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000
quân Trung Quốc hiện diện”.
Nội dung này cũng phù hợp với con
số do hãng tin Reuter loan đi ngày 16 tháng Năm, 1989 dựa theo tin của China
News Service “Hãng tin bán chính thức của Trung Quốc trong một thông báo
được theo dõi tại Hong Kong cho biết Trung Quốc đã gởi 320 ngàn quân sang Việt
Nam trong thập niên 1960”. Về con số thương vong, bản tin còn cho biết hơn
4 ngàn lính Trung Quốc đã chết trong cuộc chiến Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần
lưu ý dưới các chế độ CS, con số thương vong là một thống kê có tính cách chính
trị, con số thật sự không được tiết lộ. Giống như cách CSVN tổng kết thương
vong trong chiến tranh Việt Nam, khi nghĩ đến chuyện Mỹ bồi thường chiến tranh,
họ đưa ra con số quá cao nhưng khi khoe khoang chiến thắng họ lại hạ con số tổn
thất xuống thấp.
Trung Quốc, trong lúc dành dụm từng
ký gạo gởi giúp Việt Nam, phải trải qua nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử
loài người do Mao Trạch Đông gây ra trong thời kỳ Bước tiến nhảy vọt và Công
xã nhân dân từ năm 1958 đến năm 1962.
Không có một con số chính xác số
người chết đói tại Trung Quốc nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đã đồng ý con số
lên đến vài chục triệu người. Tác giả Peng Xizhe dự đoán thấp nhất với 23 triệu
người và Frank Dikötter, giáo sư môn Lịch sử Trung Quốc Hiện đại, dự đoán ít
nhất có 45 triệu người chết, trong đó khoảng 2 đến 3 triệu chết vì tra tấn.
Phần lớn các nhà nghiên cứu còn lại cho rằng khoảng 30 triệu người đã chết đói.
Viết trên New York Times, giáo sư Frank Dikötter trích dẫn lá thư viết tay của
viên Giám đốc Sở Anh Ninh Công Cộng tỉnh Tứ Xuyên báo cáo lên cấp trên tỉnh của
y có 10.6 triệu người chết đói. Ở Cam Túc có 50 trường hợp ăn thịt người. Nhà
báo Daniel Southerland viết trên Washington Post, tại công xã Fengyang có 63
trường hợp người ăn người và tại công xã Damiao hai vợ chồng Chen Zhangying và
Zhao Xizhen luộc chín đứa con 8 tuổi của mình để ăn. Riêng tại công xã Wudian
có cả trường hợp bán thịt của chính mình như bán thịt heo. Nói chung, những năm
cuối thập niên 1950 cho đến đầu 1960 là những năm dân số Trung Quốc giảm thấp
nhất nhưng không phải vì hạn chế sinh đẻ nhưng chết quá nhiều.
Tuy nhiên, cũng ngay trong thời
gian dân Trung Quốc có nơi phải ăn thịt người mà sống, giới lãnh đạo CSTQ đã
vét kho gởi sang nuôi CSVN.
Dưới đây là nội dung bản tổng kết
của báo Nhân Dân phát hành tại Hà Nội, số 2021 ra ngày 28 tháng Chín 1959 nhân
dịp kỷ niệm 10 năm thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được dịch sang
tiếng Anh và lưu trữ trong Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ (Libray of Congress):
“Trong năm năm qua, Trung Quốc đã
dành cho Việt Nam sự giúp đỡ nhiệt tình. Chỉ riêng tiền bạc, trong đó Trung
Quốc viện trợ không hoàn lại, đã lên đến 900 triệu Yuan, đây là số lượng bằng
thu nhập nội địa của ngân sách Việt Nam trong ba năm 1955, 1956, 1957 cộng
lại... Trong công nghiệp, Trung Quốc đã giúp chúng ta trong lãnh vực khai thác
hầm mỏ, sản xuất điện khí, cải thiện sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp thực
phẩm, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất phân
bón và hóa chất, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp dầu khí, công
nghiệp sắc thép... Mặc dù trong mười năm xây dựng, Trung Quốc đạt được nhiều
thành quả vật chất, vẫn còn là một nước nghèo. Dù sao, Trung Quốc đã hết lòng
viện trợ chúng ta. Do đó, chúng ta càng biết ơn sự trợ giúp đó”.
Mối tình Việt Trung đã vượt qua
khỏi giới hạn quan hệ hai nước bình thường, như Dương Danh Dy, nguyên Tổng lãnh
sự Việt Nam tại Quảng Châu, viết trong bài Hồ Chí Minh với Trung Quốc: “Trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ đã đi tới nhiều nơi trên thế
giới, nhưng có lẽ Trung Quốc là một trong mấy nước Bác lui tới nhiều lần nhất,
sinh sống ở đó trong thời gian dài nhất, có cống hiến rất lớn cho phong trào
cách mạng cũng như để lại ở đó nhiều tình cảm nhất”. Nói chung, từ đời sống
đến tình cảm, mặt nào cũng “nhất”.
Đảng CSVN đã sống bằng cơm gạo
Trung Quốc suốt ba năm ngân sách các năm 1955, 1956, 1957 trong khi cũng ngay
thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết trên 10 triệu người,
chết không kịp chôn, chết đầy đường phố.
Từ thời gian thành lập năm 1930 đến cuối thập niên 1960, dây chùm gởi
CSVN sống bám vào thân cây CSTQ từ vật chất đến tư tưởng. Câu nói quen thuộc trong bang giao quốc tế “quốc
gia không có bạn hay thù mãi mãi mà chỉ có quyền lợi” không áp dụng được
với Việt Nam và Trung Quốc. Quan hệ Việt Trung không giống như quan hệ ngoại
giao giữa bất cứ hai nước nào trong lịch sử cận đại. Những hy sinh của đảng
CSTQ cho đảng CSVN quá lớn để quên và quá cao để đáp đền đầy đủ. Không có sự
trợ giúp của đảng CSTQ, không biết số phận đảng CSVN giờ này trôi giạt về đâu.
Phân tích để thấy, Đặng Tiểu Bình
nguyền rủa đảng CSVN “côn đồ” không phải là quá nặng lời.
“Mối tình hữu nghị Việt – Hoa/ Vừa là đồng chí vừa là
anh em”
Đảng CSTQ quan tâm và lo lắng cho
đảng CSVN chỉ vì, ngoài lý do an ninh phên dậu phía nam Trung Quốc, họ còn luôn
nghĩ đảng CSVN là một phần của đảng CSTQ.
Không chỉ phía Trung Quốc mà Việt
Nam một thời rất lâu cũng thừa nhận điều đó. Tinh thần nô lệ Trung Quốc ăn sâu
vào nhận thức của nhiều thế hệ lãnh đạo CSVN như Dương Danh Dy kể lại “Bác
luôn coi sự nghiệp và lợi ích của cách mạng Trung Quốc như của chính mình.”
Công hàm Phạm Văn Đồng bây giờ là chuyện lớn nhưng trong thời buổi thở nhờ bình
dưỡng khí của Trung Quốc như báo Nhân Dân viết, công hàm chỉ là chuyện nhỏ.
Nhiều người kết án 11 ủy viên trong Bộ Chính trị CSVN thuộc đại hội 2 năm 1951
ngu xuẩn khi viết công hàm 1958 nhưng đó là ngu xuẩn theo nhận thức ngày nay.
Trong mắt lãnh đạo Đảng thời kỳ 1958, công hàm Phạm Văn Đồng lại là một hành
động hết sức sáng suốt, thông minh, biểu hiện tính giai cấp, phù hợp nhu cầu
phát triển đất nước và xu hướng cách mạng vô sản toàn thế giới. Mấy tổ yến trên
hoang đảo xa xôi cách Đà Nẵng 170 hải lý làm sao sánh được với 900 triệu Yuan,
làm sao so được sự hy sinh vô bờ bến của đảng CSTQ dành cho đảng CSVN, làm sao
so được với cả một lịch sử gần gũi như anh với em, vợ với chồng, nước với sữa,
môi với răng giữa hai đảng. Toàn bộ nội dung công hàm còn được đăng trên báo
Nhân dân ngày 22 tháng 9 năm 1958 như một cách nhấn mạnh đến tầm nhìn xa thấy
rộng của Đảng.
Tình càng nặng, nhớ càng sâu mà khi thù cũng sẽ rất lâu. Cuộc tình giữa hai đảng CS Trung Quốc và Việt Nam diễn
theo một chu kỳ có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Từ những ngày còn trẻ hẹn hò
bên bờ sông Mác, bên suối Lê Nin, đã thề nguyền sống chết có nhau, hơn một lần
sớt chia nhau từng hạt gạo, viết tặng nhau những dòng thơ vô cùng thắm thiết
rồi khi chia tay trong mùa đông lạnh rét họ trở thành thù địch chẳng những chém
giết không một chút xót thương mà còn mượn tay hàng xóm để tàn sát gia đình,
chặt đầu con cái và thả trôi sông người thân của kẻ từng thề vinh nhục có nhau.
Ngày 17 tháng Hai năm 1979, Đặng
Tiểu Bình phát động cuộc chiến tranh giới hạn xâm lăng lãnh thổ Việt Nam để “dạy
cho Việt Nam một bài học”. Với số quân vượt trội nhiều lần và có yếu tố bất
ngờ nhưng Trung Quốc đã chịu đựng tổn thất nặng nề ngay trong những ngày đầu
của cuộc chiến. Sau tuần lễ đầu chịu đựng nhiều thiệt hại nhưng danh sách các
vùng chiếm được chỉ là những làng xã dọc biên giới, Đặng Tiểu Bình bằng mọi giá
phải chiếm cho được thành phố Lạng Sơn, thủ phủ tỉnh Lạng Sơn để lấy tiếng
trước khi rút lui. Chiều ngày 4 tháng Ba, sau nhiều trận giao tranh đẫm máu
quân Trung Quốc tiến vào Lạng Sơn. Khi rút khỏi những nơi này, quân Trung Quốc
san bằng tất cả nhà cửa để trả thù cho số thương vong quá lớn. Ký giả Nayan
Chanda thăm vùng giao tranh vài ngày sau cuộc chiến đã ghi nhận không chỉ các
công sở nhà nước mà cả trường học, bịnh viện đều bị quân Trung Quốc giựt sập.
Theo nhận xét của Đại Tá Russell D. Howard thuộc Học Viện An Ninh Quốc Gia của
Không Quân Hoa Kỳ, Trung Quốc thiệt hại chỉ trong vài ngày bằng hơn một nửa số
tổn thất của Mỹ trong 10 năm tham dự chiến tranh Việt Nam. Thật vậy, với vũ khí
lạc hậu và đạo quân đông đảo nhưng không có kinh nghiệm chiến trường, Đặng Tiểu
Bình đã “học” nhiều hơn “dạy”.
Tái áp dụng chính sách cô lập Việt Nam
Mới đây CSTQ lần nữa mượn tay hàng
xóm Campuchia để bao vây và cô lập Việt Nam như họ đã từng làm sau năm 1975.
Cùng một mục tiêu nhưng khác về phương tiện. Vào năm 1978, phương tiện là vũ
khí nhưng lần này tài chánh sẽ là phương tiện chính. Năm 1978, các quốc gia hội
viên ASEAN ủng hộ quan điểm Đặng Tiểu Bình vì họ không muốn thấy một “Cu Ba
phương đông” trong vùng Đông Nam Á. Năm 2012, ngoại trừ Philippines, các quốc
gia như Thái, Miến, Brunei, Nam Dương, Mã Lai, Singapore đã nghiêng về phía
Trung Quốc qua thái độ không muốn can thiệp vào xung đột biển Đông.
Lý do rất dễ hiểu. Nhìn vào cán cân
ngoại thương cũng như vốn đầu tư của Trung Quốc vào các nước ASEAN sẽ biết ngay
họ làm như thế phát xuất từ lý do kinh tế và nỗi lo sợ Trung Quốc trừng phạt.
Kể từ khi Thỏa hiệp Mậu dịch Công bằng Trung Quốc-ASEAN (The China-ASEAN Fair
Trade Agreement) được ký kết năm 2010, các công ty Trung Quốc đổ tiền như nước
vào ASEAN và hiện nay là thành viên thương mại lớn nhất trong vùng. Tổng giá
trị mậu dịch giữa Trung Quốc và các nước ASEAN được dự tính sẽ tăng gấp đôi từ
231 tỉ đô la năm 2010 lên đến 500 tỉ đô la vào năm 2015 bao gồm hầu hết các
ngành công nghiệp, nhẹ như tơ sợi đến nặng như sắt thép. Làm ăn với ASEAN,
Trung Quốc rất yên tâm vì biết ASEAN không phải là một liên minh quân sự và
trong nội bộ ASEAN chẳng nước nào tin tưởng nước nào.
Tham vọng khống chế ASEAN không
phải là mới mà đã bắt đầu từ chuyến viếng thăm của Đặng Tiểu Bình đến các nước
ASEAN từ năm 1978. Việc họ Đặng chọn Thái Lan như chặng đầu tiên chỉ vì vừa
muốn ve vãn đồng minh thân cận Mỹ ở Đông Nam Á và cũng muốn dùng đất Thái để
tiếp tục yểm trợ vũ khí cho Pol Pot. Tại mỗi chặng trên chuyến viếng thăm, Đặng
Tiểu Bình nhấn mạnh Việt Nam, một “Cu Ba phương đông” như một đe dọa cho hòa
bình và ổn định trong vùng Đông Nam Á. Trong số các lãnh tụ ASEAN thời đó chỉ
có Lý Quang Diệu là người hiểu được tâm địa của họ Đặng. Đặng Tiểu Bình ngạc
nhiên khi nghe Lý Quang Diệu phát biểu rằng các quốc gia Đông Nam Á lo ngại
Trung Quốc nhiều hơn là lo ngại Việt Nam. Dù bất đồng một số điểm Đặng và Lý
rất thán phục nhau về khả năng lãnh đạo, tính thực tế và biết nhìn xa về tương
lai đất nước họ và thế giới.
Điều kiện kinh tế chính trị năm
2012 khác với điều kiện kinh tế chính trị năm 1979 nhưng đều bất lợi cho CSVN
và cũng do bàn tay lông lá của Trung Quốc vận dụng từ bên trong. Chủ trương của
Trung Quốc là không chế Việt Nam, giữ Việt Nam trong vòng khốn đốn, lạc hậu,
nghèo nàn, ăn không ngon và ngủ không yên như thời Trung Quốc xúi dục Khmer Đỏ
quậy phá vùng biên giới Tây-Nam Việt Nam. Lãnh đạo CSTQ vừa phải hành xử như
một trong những cường quốc kinh tế nhưng cùng lúc không che giấu tham vọng
thống trị biển Đông bằng mọi phương tiện. Và nếu phải chọn một đối tượng để dằn
mặt các nước nhỏ trong vùng, không có đối tượng nào khác hơn là Việt Nam.
Sau một thời gian tương đối yên
tĩnh, biết đâu trong những ngày tới, tiếng súng lại nổ vang ở Phú Quốc, Tây
Ninh, An Giang và nạn “cáp duồn” lại xảy ra cho bà con đang làm ăn trên đất
Campuchia. Khác với tình trạng năm 1977-1978, lần này CSVN nhiều lắm chỉ có thể
phản ứng tự vệ dọc biên giới Việt Miên nhưng không thể, về cả điều kiện chính
trị thế giới lẫn khả năng quân sự, đánh sập Campuchia trong một hai tuần như
trước đây.
Trong cuộc chiến Việt Miên năm
1979, phía Việt Nam chiếm nhiều ưu thế về cả phương tiện chiến tranh lẫn kinh
nghiệm chiến trường. Hai ưu thế đó không còn nữa. Suốt 37 năm, giới lãnh đạo
đảng CSVN chỉ lo củng cố vai trò cai trị, tham nhũng, tập trung lực lượng an
ninh vào việc trấn áp những người yêu nước mà bỏ qua một thế giới đang không
ngừng thay đổi, đi lên và những lãnh đạo Campuchia gốc Kmer Đỏ đang mỗi ngày
được hiện đại hóa về mọi mặt.
Pol Pot và Đặng Tiểu Bình
Nói đến Khmer Đỏ không thể không
nhắc vai trò của Trung Quốc trong xung đột Việt Nam Campuchia. Pol Pot và đảng
CS Campuchia là thủ phạm trực tiếp nhưng Đặng Tiểu Bình và đảng CSTQ cũng đã
đóng vai trò quan trọng dẫn tới nạn diệt chủng Campuchia. Chính Hun Sen xác
nhận điều này trong luận án của y: “Trung Quốc có vai trò quan trọng trong
việc ủng hộ cuộc diệt chủng của Polpot đối với nhân dân Campuchia cũng như việc
Polpot xâm lược Việt Nam”.
Quan hệ giữa Pol Pot và Trung Quốc
bắt nguồn rất sớm và trở nên chặt chẽ về mặt lý luận sau khi Pol Pot bí mật
viếng thăm Trung Quốc vào năm 1965. Y ở lại Trung Quốc nhiều tháng và làm việc
với Đặng Tiểu Bình, lúc đó là Tổng bí thư đảng CSTQ. Pol Pot được Mao Trạch
Đông chỉ dẫn nhiều điểm về lý luận cách mạng và chiến tranh nhân dân. Mao thậm
chí còn tặng người học trò ngoan Pol Pot này ba chục cuốn sách của Marx,
Engels, Lenin và Stalin. Dòng máu hung bạo, ác độc trong người của Pol Pot được
nhuộm đỏ bằng chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa dân tộc cực đoan Campuchia. Quan điểm
cách mạng liên tục của Mao ảnh hưởng Pol Pot rất nhiều trong việc hoạch định
các chiến lược tấn công chế độ Lon Nol thân Mỹ.
Pol Pot trở lại Trung Quốc và tham
khảo với Đặng Tiểu Bình từ 28 tháng Chín đến 22 tháng 10, 1977. Đây là lần đầu
tiên báo chí quốc tế chính thức biết Saloth Sar và Pol Pot chỉ là một người. Họ
Đặng rất vui khi được Pol Pot chia sẻ quan điểm triệt để chống CSVN của y.
Trung Quốc viện trợ cho Campuchia hàng trăm xe tăng, đại pháo và nhiều máy bay
chiến đấu để chuẩn bị cho các trận đánh lớn có thể xảy ra. Trong giai đoạn này,
Trung Quốc là đồng minh duy nhất của Khmer Đỏ. Pol Pot chủ trương chỉ cần một
người Campuchia diệt được ba chục người Việt, dân Campuchia sẽ tiêu diệt toàn
bộ dân tộc Việt Nam. Các cuộc đột kích vào đảo Thổ Châu, Phú Quốc, nhiều địa
phương thuộc các tỉnh An Giang, Tây Ninh, đốt phát làng mạc, giết người, bắt
cóc, bịt mắt thả sông của Khmer Đỏ trong giai đoạn 1977-1978 phát xuất từ chủ
trương này.
Các trận đột kích liên tục của quân
đội Pol Pot gây thiệt hại nặng cho dân Việt sống vùng biên giới đã dẫn đến cuộc
phản tấn công của CSVN vào nội địa Campuchia trong những ngày cuối năm 1979,
đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và ngày 8 tháng Giêng 1979 thiết lập chế độ
thân CSVN Heng Samrin với Hun Sen là Bộ trưởng Ngoại Giao. Về mặt chiến lược,
việc CSVN đánh sập chế độ Pol Pot là đúng nhưng vì không có một đồng minh nào
ngoại trừ khối Liên Xô xa xôi, bị Trung Quốc, Mỹ, ASEAN liên kết nhau cô lập
nên CSVN đã rơi vào vũng lầy Campuchia suốt mười năm.
Hun Sen là ai?
Hun Sen chẳng phải là người xa lạ.
Y nguyên là Trung đoàn phó của một đơn vị Khmer Đỏ đào thoát theo Việt Nam và
đóng vai Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Heng Samrin. Lý lịch của y cũng
giống như các lãnh đạo CS thay đổi tùy theo thời thế. Một số nghiên cứu cho
rằng y tham gia Khmer Đỏ khá sớm, khoảng 1967, nhưng Hun Sen phủ nhận và tự
khai y chỉ gia nhập vào năm 1970 đáp lời kêu gọi của Hoàng thân Norodom
Sihanouk. Giống như nhiều lãnh đạo Campuchia có quá khứ Khmer Đỏ khác, Hun Sen
cố tình che giấu lý lịch của mình càng nhiều càng tốt.
Luật sư Brad Adams, Giám đốc Khu
vực Á châu của Human Rights Watch, nhận xét Hun Sen là một kẻ có bản chất độc
tài thô bạo không khác gì các nhà độc tài trong cùng “câu lạc bộ 10 ngàn”, ám
chỉ một nhóm gồm những nhà độc tài thông qua bạo động, kiểm soát an ninh, dựa
vào sự yểm trợ từ nước ngoài để kéo dài quyền lực cai trị trên 10 ngàn ngày.
Sau sự sụp đổ của hàng loạt các nhà độc tài tại Tunisia, Egypt, Libya và Yemen,
Hun Sen là một trong số rất ít hội viên của “câu lạc bộ 10 ngàn” còn nắm được
quyền hành.
Tên danh dự đầy đủ của Hun Sen là
Samdech Akeak Moha Sena Padei Techo Hun Sen còn dài hơn cả tên danh dự của nhà
độc tài khát máu nhất Congo là Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga. Mới
đây khi được hỏi liệu y có lo ngại sẽ bị lật đổ như các nhà độc tài Tunisia,
Egypt, Libya, máu Khmer Đỏ trong người sục sôi lên và Hun Sen trả lời: “Tôi
chẳng những làm suy yếu đối phương mà còn tận diệt chúng... Nếu kẻ nào nghĩ
mình đủ mạnh để biểu tình, tôi sẽ đánh gục bọn chó đó và nhốt chúng vào trong
cũi”.
Hun Sen không chỉ đe dọa thôi nhưng
trong quá khứ y đã trấn áp đối lập một cách thô bạo nhiều lần. Trong năm 1991,
khi các đại diện Liên Hiệp Quốc vào Campuchia tổ chức tuyển cử, Hun Sen đã ra
lịnh cho an ninh dưới quyền tàn sát trên 100 đảng viên của một đảng đối lập
ngay trước mắt của phái đoàn Liên Hiệp Quốc. Một lần khác, vào năm 1997, Hun
Sen ra lịnh cho cận vệ tấn công bằng lựu đạn vào một buổi họp của lãnh tụ đối
lập Sam Rainsy làm 16 người chết và hơn 150 người bị thương. Cũng trong năm
1997, lo ngại bị thất cử, Hun Sen tổ chức đảo chánh chống lại đảng Hoàng gia mà
y đã liên minh. Hàng trăm người bị bắt và bị giết. Các nhân viên Liên Hiệp Quốc
khi đào xác lên đã khám phá phần lớn đã bị bắn vào đầu trong lúc đang bị còng
tay và bị bịt mắt. Những hình ảnh đó gợi lại cảnh tượng kinh hoàng của thời Pot
Pot.
Hun Sen 1997 theo dấu chân Pol Pot 1977
Nhiều người cho rằng Hun Sen mới
ngã về phía Trung Quốc mới đây. Điều đó không đúng. Khuynh hướng thân Trung
Quốc của Hun Sen bắt đầu sau cuộc đảo chánh đẫm máu năm 1997. Cuộc đảo chánh đã
làm y mất uy tín trong các lãnh đạo các quốc gia dân chủ Tây phương. Nhiều quốc
gia đã ngưng viện trợ cho chính phủ Hun Sen hay tiếp tục viện trợ nhưng đưa ra
các điều kiện phải tôn trọng nhân quyền.
Giống như Pol Pot trước đây, Hun
Sen không còn đường nào khác ngoài việc đi tìm sự ủng hộ từ phía Trung Quốc. Dĩ
nhiên giới lãnh đạo CSTQ nắm bắt cơ hội ngàn vàng này. Từ năm 1997 đến năm
2005, Trung Quốc cung cấp chính quyền Hun Sen 600 triệu đô la qua đầu tư, viện
trợ không hoàn lại, hủy bỏ nợ đến thời hạn trả. Từ năm 2000, hàng loạt lãnh đạo
cao cấp CSTQ lần lượt viếng thăm Campuchia. Tổng bí thư Giang Trạch Dân thăm
Campuchia năm 2000, Chủ tịch Lý Bằng thăm Campuchia năm 2001, Thủ tướng Chu
Dung Cơ thăm Campuchia năm 2002.
Đáp lại, trong cùng thời gian, Hun
Sen đã thăm viếng Trung Quốc tất cả 6 lần. Hun Sen từng tuyên bố “Trung Quốc
nói ít làm nhiều” vi viện trợ của Trung Quốc không đặt ra các điều kiện
nhân quyền trong khi nhân quyền lại là tiền đề thảo luận với các nước dân chủ.
Trong bang giao quốc tế, chế độ Hun Sen nhiệt tình ủng hộ các chính sách của
CSTQ qua việc ngăn cấm các viên chức trong chính quyền y thăm viếng Đài Loan,
ủng hộ chính sách “Một Trung Quốc”, y còn họa theo Trung Quốc khi lên
tiếng kết án Mỹ trong vụ máy bay Mỹ ném bom lầm xuống tòa đại sứ Trung Quốc tại
Belgrade năm 1999.
Trong lãnh vực quân sự, Trung Quốc
lần nữa đóng vai trò yểm trợ tích cực như đã từng làm đối với chế độ Pol Pot.
Từ sau cuộc đảo chánh của Hun Sen năm 1997, Trung Quốc đã gởi các trang bị quân
sự cho cánh Hun Sen, xây dựng các doanh trại quân đội, sửa chữa phi trường
Kampong Chhnang, hàng năm đưa 40 sĩ quan trong quân đội Campuchia sang Trung
Quốc huấn luyện. Năm 2011, Trung Quốc cho Campuchia vay 195 triệu đô la để mua
một số lượng máy bay trực thăng không được tiết lộ của Trung Quốc. Mới đây, 18
tháng Tám 2012, Trung Quốc viện trợ quân sự cho Campuchia thêm 19 triệu đô la
và sẽ giúp xây dựng các bệnh viện quân đội, trung tâm huấn luyện cho đạo quân
140 ngàn của Hun Sen.
Trong hai tháng qua, nhiều người
Việt phê bình Hun Sen và lãnh đạo hai nước láng giềng hữu nghị thân thiết
Campuchia và Lào, có lịch sử gắn bó từ thời đảng CS Đông Dương, đã bí mật bắt
tay Trung Quốc. Thật ra, không có chỗ cho các yếu tố đạo đức, ơn nghĩa trong
bàn cờ chính trị. Hơn ai hết Hun Sen biết chính bản thân y trước đây khi được
đặt vào chức Bộ trưởng Ngoại giao ở tuổi 27 cũng chỉ là con cờ chính trị của
CSVN mà thôi. Thời thế đã đổi thay và con người thay đổi theo thời thế là
chuyện bình thường.
Nhiều nhà phân tích cho rằng
Campuchia nên giữ vai trò độc lập trong xung đột Việt Trung để nhận được sự ủng
hộ từ cả hai bên nhưng đó chỉ là lý thuyết, lịch sử và thực tế kinh tế chính
trị cho thấy, Campuchia phải chọn CSTQ và chia tay với CSVN. Đi với Việt Nam,
Hun Sen không được gì trong khi đi với Trung Quốc Hun Sen có lợi cho cả cá nhân
lẫn đất nước của y. Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với Campuchia và
Bangladesh về sản phẩm tiêu dùng loại rẻ tiền nói chi là chuyện tranh đua với
Trung Quốc để viện trợ cho Campuchia.
Đối với nội bộ Campuchia, càng đóng
vai trò độc lập với Việt Nam bao nhiêu, Hun Sen, người vẫn còn bị phe đối lập
tại Campuchia tố cáo là bù nhìn Việt Nam, sẽ càng được sự ủng hộ của nhân dân
Campuchia bấy nhiêu. Thế hệ Campuchia được CSVN cứu sống năm 1979 đã già và
nhiều trong số họ đã chết. Thế hệ trẻ lớn lên chỉ biết đến Việt Nam là kẻ thù
truyền thống của dân tộc Khmer.
Trong diễn văn kỷ lục dài trên 5
giờ trước quốc hội vào đầu tháng 8, 2012, Hun Sen cứng rắn cam kết “Thật ra,
tuy nhiên, biên giới đường biển giữa Campuchia và Việt Nam vẫn chưa xác định và
không một giọt nước nào của nguồn hải lưu đã bị mất về tay Việt Nam”. Các
lãnh tụ đối lập trong quốc hội Campuchia từ nhiều năm nay liên tục tố cáo Việt
Nam cướp đoạt đất đai trong đó có cả đảo Phú Quốc và vùng hạ lưu sông Cửu Long
nơi có dân Khmer Krom đang sống. Khẩu hiệu chống Việt Nam cướp đất đầy tính
khích động nhưng lại rất thu hút cử tri trong các mùa bầu cử. Sự cứng rắn đối
với Việt Nam của Hun Sen đáp ứng “nguyện vọng” nhân dân nhằm binh vực tính
chính danh của chế độ và tiếp tục là hội viên của “câu lạc bộ 10 ngàn” lâu hơn
nữa.
Hun Sen tham nhũng
Vi trùng tham nhũng sinh sản rất
nhanh trong các chế độ độc tài, nơi quyền lực tập trung trong tay một nhóm nhỏ
người nắm quyền cai trị. Tham nhũng là một trong những căn bịnh đang đè nặng
lên xã hội Campuchia và gia đình bị tố cáo tham nhũng nhiều nhất là Hun Sen.
Mặc dù chỉ làm việc cho chính phủ trong suốt hơn 30 năm, gia đình y có một đời
sống sung túc hơn bất cứ người dân Campuchia nào.
Cũng theo lời của luật sư Brad
Adams thuộc tổ chức Human Rights Watch, mười năm trước, một viên chức Bộ ngoại
giao Mỹ đã tiết lộ cho ông biết tài sản của Hun Sen được ước lượng vào khoảng
500 triệu đô la. Không ai biết chính xác giá trị bất động sản và dự trữ đô la,
vàng bạc của Hun Sen và gia đình tại các ngân hàng ngoại quốc hiện nay là bao
nhiêu. Phản ứng trước những lời tố cáo tham nhũng, Hun Sen cho báo chí biết y
và gia đình chỉ sống bằng đồng lương Thủ tướng 1,150 đô la mỗi tháng. Tuy nhiên
không một nhà phân tích nào tin vào con số không thể nào đúng với thực tế này.
Không có CSVN, Hun Sen không chỉ mù
một mắt mà đã mồ hoang mã lạnh từ lâu rồi, nhưng với bản chất bạo động, háo
danh, tham vọng quyền lực sẳn có người của cựu Khmer Đỏ, Hun Sen rất dễ dàng bị
Trung Quốc khích động và mua chuộc. Lãnh đạo CSTQ thừa tiền bạc và cũng thừa kinh
nghiệm làm ăn với các lãnh đạo độc tài. Cả một đám lãnh đạo châu Phi xa xôi và
đắt tiền mà Trung Quốc còn mua chuộc được dễ dàng sá gì một Hun Sen hay một
Choummaly Sayasone rẻ mạt ở sát bên nhà.
Chu kỳ thù hận Việt-Trung-Miên
Và tất cả những oan nghiệt đó, dùng
chữ của Hun Sen trong luận án tiến sĩ chính trị của y, chỉ vì cùng “từ một
bào thai” CS. Lịch sử hiện đại của ba nước bị trói chặt bởi sợi xích oan
nghiệt CS. Thật vậy, ý thức hệ CS là nguyên nhân sâu xa cho tất cả đau thương
thảm khốc mà người dân vô tội trong ba quốc gia Việt, Trung, Campuchia đã chịu
đựng. Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc, Cải cách ruộng đất ở Việt Nam, Năm số
không (Year Zero) ở Campuchia đều là sản phẩm của hệ tư tưởng Mác Lê Mao.
Chủ nghĩa Cộng Sản đã tàn trên phần
lớn trái đất nhưng tại ba nước Việt, Trung, Campuchia bóng ma Cộng Sản vẫn còn
ám ảnh thường xuyên trên số phận con người. Ngày nào đảng CS còn cai trị hay có
ảnh hưởng lớn, ba nước Việt, Trung, Miên lại sẽ đi vòng theo một chu kỳ thù
địch, bắt đầu từ chỗ nợ máu xương và chấm dứt ở chỗ thanh toán nhau bằng xương
máu.
Trung Quốc có tranh chấp biên giới
với gần 20 quốc gia, lớn như Ấn Độ và nhỏ như Bhutan, nhưng chỉ có Việt Nam là
hệ lụy nặng nề. Campuchia cũng tranh chấp biên giới với Thái Lan và thậm chí
mới pháo kích vào đất nhau nhưng chỉ xung đột với Việt Nam là người ta hình
dung ngay đến một viễn ảnh vô cùng thảm khốc.
Tại sao?
Chỉ vì cả ba nhánh sông này đều
phát xuất từ một nguồn CS. Những người như Hồ Chí Minh, Trần Phú, Norodom
Sihanouk, Heng Samrin, Pol Pot, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Đặng Tiểu
Bình, Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm đã xác lạnh từ lâu nhưng tên tuổi họ vẫn
được nhắc đi nhắc lại trong lịch sử ba nước như những oan hồn còn nặng nợ trần
gian.
Thật vô cùng phi lý khi những đứa
bé Campuchia sinh ra ở Nam Vang, đứa bé Việt Nam sinh ra ở Hà Nội hôm nay lại
phải gánh chịu oan khiên từ thời đảng CS Đông Dương. Và cũng thật buồn cười khi
quan hệ giữa hai quốc gia không đặt căn bản trên luật pháp quốc tế mà bị chi
phối bởi bốn câu thơ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện” đầy sáo ngữ, mỉa mai và phản thực tế.
Việt Nam chưa bao giờ bị cô lập hơn
hôm nay. Trong giai đoạn xung đột biên giới Việt Miên 1977-1979, ít ra còn có
phe Liên Xô ủng hộ, ngày nay một mình trên hoang đảo, chung quanh chẳng còn ai
và ảnh hưởng mỗi ngày thêm hẹp. Giới lãnh đạo đảng CSVN chẳng những biết rõ mà
còn là đồng tác giả của thảm trạng Việt-Trung-Miên. Trước năm 1975, CSVN đã góp
phần nuôi dưỡng tên đồ tể Pol Pot này. Năm 1965, Pol Pot đã từng đi bộ dọc theo
đường mòn Hồ Chí Minh ra Hà Nội để tham khảo Lê Duẩn về chiến lược chiếm
Campuchia. Tháng Bảy năm 1975, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ là hai trong số những quốc
khách đầu tiên chính thức viếng thăm nước Campuchia Dân Chủ.
Suốt hơn 30 năm, nhân dân Việt Nam
phải chịu đựng từ thảm họa này sang thảm họa khác như một chu kỳ lập đi rồi lập
lại nhưng giới lãnh đạo Đảng không có một sách lược cụ thể, dứt khoát nào để
đưa Việt Nam ra khỏi vòng bế tắc. Lý do đơn giản chỉ vì việc duy trì quyền lực
và quyền lợi của giới lãnh đạo đảng được xem là một ưu tiên hàng đầu, trên cả
chủ quyền đất nước và tương lai dân tộc.
Một người có ý thức nào cũng biết,
cách duy nhất để thoát ra khỏi chu kỳ máu xương thù hận Việt–Trung-Miên là Việt
Nam trước hết phải thoát ra khỏi bóng tối của chủ nghĩa Cộng Sản độc tài bước
ra phía ánh sáng của thời đại tự do dân chủ.
Chỉ khi nào Việt Nam đứng dưới bầu
trời tự do dân chủ giới lãnh đạo CSTQ mới không có quyền nghĩ những đại diện
của quốc gia Việt Nam không Cộng Sản kia là “đám côn đồ”.
Chỉ khi nào Việt Nam đứng dưới bầu
trời tự do dân chủ, Hun Sen cùng đảng Dân chủ Nhân dân của ông ta mới không còn
nghi ngờ những đại diện của quốc gia Việt Nam không CS thật ra chỉ là những tên
cướp nước giả nhân giả nghĩa.
Tất cả sẽ đều bình đẳng trước Hiến
chương Liên Hiệp Quốc và các công ước quốc tế mà ba bên đã ký kết. Ân oán nợ
nần giữa các đảng CS không có liên hệ gì đến dân tộc Việt Nam. Những khẩu hiệu
có tính tuyên truyền như “16 chữ vàng”, “tình hữu nghị” sẽ bị gạch bỏ theo chế
độ Cộng Sản đã sáng tác ra chúng.
Trong cuộc đàm phán đa phương hay
ngay cả song phương với Trung Quốc và Campuchia, các đại diện của một nước Việt
Nam dân chủ có thể thắng, có thể huề và cũng có thể thua, nhưng dù thắng, huề
hay thua đều dựa trên cơ sở luật quốc tế và luôn hành xử xứng đáng với tư cách
của một cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước Việt Nam dân chủ, độc
lập, chủ quyền, và sẽ được sự ủng hộ của đại đa số con người yêu chuộng tự do,
hòa bình trên thế giới.
Con đường giành lại Hoàng Sa và bảo
vệ Trường Sa là một con đường dài, gian nan, đầy gai góc, bị chi phối bởi nhiều
yếu tố khách quan và chủ quan. Nhưng nếu không đi sẽ không bao giờ đến. Cho dù
lâu dài và gian nan cũng phải bắt đầu và điểm bắt đầu mà một người Việt Nam yêu
nước nào cũng có thể làm được, đó là tích cực đóng góp vào tiến trình dân chủ
hóa Việt Nam.
____________________________________
Tham khảo:
· Extraordinary Chambers in the
Courts of Cambodia, the United Nations.
· Frank Dikotter, Mao’s Great
Famine, Walker & Company 2010
· Ian Storey, China’s Tightening
Relationship with Cambodia, The Jamestown Foundation.
· Behind the Bamboo Curtain:
China, Vietnam, and the World beyond Asia, edited by Priscilla Roberts, tr.
260, 393-394, Stanford University Press 2007.
· Ezra F. Vogel, Deng Xiaoping
and the Transformation of China, Harvard University/Belknap Press 2010, tr.
283.
· Philip Short, Pol Pot: Anatomy
of a Nightmare, Macmillan, 2006, tr. 389
· Francis Deron, Several
Improper Connections in Matters of Massacre: China, Cambodia, Indonesia,
Monde Chinois, 2008.
· Xiaobing Li, China at War: An
Encyclopedia, ABC-CLIO LLC, 2012
· Reuter, China admits 320,000
troops fought in Vietnam, May 16 1989
· Daniel Southerland, Uncounted
Millions: Mass Death in Mao’s China, Washington Post, July 17, 1994
· Brad Adams, 10,000 Days of Hun
Sen, The New York Times, May 31, 2012
· Russell D. Howard, The Chinese
People's Liberation Army: "Short Arms and Slow Legs", USAF
Institute for National Security Studies 1999
· Cambodian Genocide Program,
Yale University
· Vũ Cao Đàm, Bài học đáng giá
từ Luận án Tiến sĩ của Thủ tướng Campuchia Hun Sen, Bauxite Việt Nam,
14-8-2012
· Wikipedia “Chiến dịch phản
công biên giới Tây-Nam Việt Nam”
· Wikipedia “Đặng Tiểu Bình”
· Wikipedia “Pol Pot”
No comments:
Post a Comment