Iris Vinh Hayes
PSN - 28.12.2011
"Thật
lạ đời rằng trong một chế độ dân chủ tự do, nơi người ta không chính thức đưa
đạo đức lên như một giá trị của thể chế, nơi người ta chỉ dành nhiều thời gian
và công sức để đề cao và bảo vệ nền pháp trị thì đạo đức lại được phát huy. Bởi
xét cho cùng những giá trị như công bằng, tự do, tự thân chúng lại là một vấn
đề đạo đức. Không có kẻ vô đạo đức nào yêu chuộng công bằng, tự do. Bởi vậy,
không ngoa chút nào khi ta nói xã hội dân chủ được đặc trưng bởi đạo đức.”
(Trích: Bàn về đạo đức thay lời chúc mừng Giáng Sinh của Huỳnh Thục Vy đăng
trên báo Dân Luận.). Những “lời bàn” này của HTV, theo tôi, giá trị của nó rất
nặng cân. Và tôi muốn tiếp sức cho “lời bàn” của cô với một bài luận (đã được
viết từ cuối thập niên 1980s) về cái mà tôi gọi là “đạo đức cơ chế.” Iris Vinh
Hayes.
Con người không phải là dã
thú cho nên phải lấy văn minh thiện đức mà đối đãi nhau. Muốn được văn minh
thiện đức, đời sống tinh thần và vật chất của con người phải phong phú và hài
hòa. Tổ chức cho đời sống của con người phải dựa trên những tư tưởng, nguyên
tắc và hành động phù trợ văn minh thiện đức.
Con người sinh ra vốn bình
đẳng và tự do. Đời sống đúng nghĩa cho con người phải thể hiện trạng thái bình
đẳng và tự do. Ngay cả tương quan thiên địa nhân còn đồng vị hà huống chi là
tương quan giữa con người với con người. Cho nên không ai có thể nhân danh bất
cứ một lý do nào -dầu là vì Trời, vì Đất, hay vì Người- để hủy bỏ hoặc tước
đoạt sự bình đẳng và tự do của con người.
Không một ai có thể tự đặt
mình ở vị thế cao trọng hơn người khác hoặc ép buộc người khác phải tuân theo
tha lực trái với ý muốn. Đành rằng tổ chức của xã hội loài người phát sinh nhu
cầu lãnh đạo và tuân hành nhưng không vì nhu cầu đó mà sự bình đẳng và tự do
của con người có thể bị ngang nhiên cưỡng đoạt. Để dung hòa giữa nhu cầu tổ
chức với nhu cầu tôn trọng quyền bình đẳng và tự do của con người, quyền lãnh
đạo phải được cho phép trước bởi những người tuân hành.
Sự tự nguyện tuân hành của
đại đa số bằng cách ủy nhiệm vai trò lãnh đạo cho một thiểu số là nguồn gốc cơ
bản của quyền lực dân chủ. Từ đó, trong phạm trù tổ chức của một quốc gia dân
chủ, quyền lãnh đạo là do dân trao cho mà có. Dân phải là chủ. Quyền cho phép
lãnh đạo phải nằm trong tay dân. Đó gọi là dân quyền.
Dân quyền phải là nền móng
cho cung cách tổ chức của một quốc gia dân chủ. Dân thiết lập hiến pháp và thể
chế lãnh đạo. Dân chọn lựa thành phần lãnh đạo và sách lược lãnh đạo. Dân quyết
định tương lai và vận số của đất nước. Tất cả guồng máy lãnh đạo đất nước phải
là của dân, do dân và vì dân.
Dân quyền hoàn toàn không
hiện hữu nếu dân không thể tự chủ thiết lập hiến pháp và thể chế lãnh đạo; nếu
dân không thể tự chủ chọn lựa thành phần lãnh đạo và sách lược lãnh đạo; nếu
dân không thể tự chủ quyết định tương lai và vận số của đất nước. Tất cả mọi
hình thức “cho phép” người dân suy nghĩ, lên tiếng, hay hành động từ phía nhà
cầm quyền không thể gọi là dân quyền, không thể ngụy tạo là dân quyền, không
thể ngộ nhận là dân quyền, không thể chấp nhận là dân quyền. Theo đó, cũng
không thể nói guồng máy điều hành đất nước là của dân, do dân và vì dân.
Tất cả những quyền lực lãnh
đạo, bất kể phát xuất từ đâu hay dưới bất cứ danh nghĩa nào, nếu không có sự ủy
nhiệm của dân đều được coi là bạo quyền. Và, nếu đã là một guồng máy lãnh đạo
được xây dựng trên nền móng của bạo quyền thì đất nước đó không thể thực sự là
một quốc gia dân chủ dầu nhà cầm quyền có che đậy dưới bất cứ hình thức nào, có
đánh bóng với bất cứ lý tưởng nào, có trống chiên với bất cứ chiêu bài nào, có
ngụy tạo dưới bất cứ ngôn từ nào, có giải thích với bất cứ lý do nào.
Bạo quyền là nguồn gốc cơ
bản của chiến tranh. Từ nghìn xưa cho tới giờ chế độ quân chủ phong kiến chuyên
chế không ổn định lâu dài. Chế độ phát xít độc tài chuyên chế không ổn định lâu
dài. Chế độ cộng sản độc tài chuyên chế không ổn định lâu dài. Chỉ vì những chế
độ này đều dùng sức mạnh của bạo quyền mà áp chế. Bạo quyền thường hấp dẫn bạo
hành. Đó là định luật đương nhiên. Vì vậy, đấu tranh tàn hủy triền miên là điều
khó tránh. Tội nghiệp dân đen phải chịu cảnh nổi trôi quằn quại!
Bạo quyền là nguồn gốc cơ
bản của mọi cưỡng đoạt. Dưới móng vuốt của bạo quyền, mạng sống của con người
bị cưỡng đoạt; sự sống của con người bị cưỡng đoạt; cho đến cách sống của con
người cũng bị cưỡng đoạt. Nói một cách khác, mọi quyền sống của con người -bao
gồm mạng sống, sự sống, và cách sống- đều bị cưỡng đoạt. Cưỡng đoạt công khai,
cưỡng đoạt âm thầm, cưỡng đoạt thô bỉ, cưỡng đoạt tinh vi, cưỡng đoạt có lý do,
cưỡng đoạt không lý do, cưỡng đoạt dưới mọi hình thức, cưỡng đoạt trong mọi môi
trường, cưỡng đoạt ở mọi cấp độ. Chế độ quân chủ phong kiến độc tài chuyên chế
cưỡng đoạt quyền sống của con người. Chế độ phát xít độc tài chuyên chế cưỡng
đoạt quyền sống của con người. Chế độ cộng sản độc tài chuyên chế cưỡng đoạt
quyền sống của con người. Những chế độ độc tài chuyên chế này đều dựa vào bạo
quyền để cưỡng đoạt. Và một khi quyền sống của người dân đã bị cưỡng đoạt thì
hạnh phúc của người dân không thể nào thực sự hiện hữu.
Nhìn suốt dòng lịch sử của
nhân loại, chỉ có quyền lực dân chủ mới bảo đảm được sự ổn định lâu dài cho đất
nước. Và duy nhất chỉ có quyền lực dân chủ mới bảo đảm được quyền sống và hạnh
phúc cho người dân.
Tuy nhiên, quyền lực dân
chủ tự nó chưa đủ để có thể nói là “bảo đảm chắc chắn” cho sự ổn định lâu dài
và cho quyền sống của con người. Phải có một cơ chế dân chủ để gìn giữ và ngăn
chận không cho quyền lực dân chủ đi đến tình trạng tha hóa.
Con người, không cần biết
là chi sơ tính bản thiện hay tính bản ác, luôn luôn thay đổi để đáp ứng với
hoàn cảnh. Sự thay đổi có thể mang con người từ chỗ không văn minh thiện đức
đến chỗ văn minh thiện đức. Ngược lại, sự thay đổi có thể mang con người từ chỗ
văn minh thiện đức đến chỗ mất đi văn minh thiện đức. Và sự thay đổi của những
tập thể cũng không khác. Đó là một sự thật tất nhiên và bất biến.
Vì vậy, để ngăn ngừa hậu
quả không tốt, quyền lực lãnh đạo không được tập trung vào một tập thể duy
nhất. Đồng thời, sự ủy nhiệm quyền lực lãnh đạo cho từng cá nhân phải có giới
hạn. Nói một cách khác, ba nguyên tắc phân quyền, tản quyền và bầu cử định kỳ
phải được áp dụng triệt để. Phân quyền, tản quyền và bầu cử định kỳ có thể tạm
gọi là ba nguyên tắc ủy nhiệm quyền lực dân chủ.
Ba nguyên tắc ủy nhiệm
quyền lực dân chủ là thành lũy kiên cố để chống lại sự lạm dụng quyền lực của
cá nhân trong một cơ chế lãnh đạo; để chống lại sự lạm dụng quyền lực của một
tập thể lãnh đạo; để bảo vệ dân quyền và nhân quyền; để gìn giữ cơ chế dân chủ;
để khai phóng sinh hoạt chính trị theo chiều hướng nhân bản cao độ, trong đó
toàn dân chung dự một cách thoải mái vì không sợ bị bạo quyền đe dọa đến đời
sống và mạng sống. Và, theo đó sinh hoạt chính trị của quốc gia được ổn định
lâu dài.
Đối với một cơ chế lãnh đạo
dân chủ trong một guồng máy điều hành quốc gia được xây dựng trên nền móng dân
quyền, ba nguyên tắc ủy nhiệm là phương tiện để có thể cùng nhau mà lãnh đạo.
Cùng nhau lãnh đạo có thể thực hiện được nhờ vào bản chất của dân chủ là dung
chứa và hòa hợp. Trong thể chế dân chủ, đối lực cũng là trợ lực. Trong cái đối
kháng có sự phù trợ. Trong cái phù trợ có sự đối kháng. Phù trợ nhau để cùng
sinh tồn. Đối kháng nhau để cùng tiến hóa. Đối kháng nhau mà không hủy diệt
nhau. Phù trợ nhau mà không toa rập nhau để đưa đến chỗ chuyên chế lầm lạc. Vì
vậy, ba nguyên tắc ủy nhiệm quyền lực lãnh đạo dân chủ có thể nói là cái thể
dụng tuyệt vời của đạo lý âm dương. Phân quyền, tản quyền và bầu cử định kỳ là
cái Đức sáng của Đạo thể hiện trong cơ chế dân chủ.
Đối với một cơ chế cầm
quyền phi dân chủ cai quản một guồng máy khống trị đất nước được xây dựng trên
nền móng bạo quyền, phân quyền là điều không thể thực sự có được bởi vì nhu cầu
của bạo quyền là thống trị độc tôn. Tất cả mọi đối lực, bên trong và bên ngoài,
đều được coi là những đe dọa trực tiếp tới quyền lực của giới cầm quyền khống
trị và tới sự sinh tồn của bộ máy khống trị hỗ trợ quyền lực đó. Do những động
lực phát sinh từ nhu cầu thống trị độc tôn, hủy diệt đối lực hay bị đối lực hủy
diệt là tiến trình duy nhất. Khát vọng phải hủy diệt đối lực ngay từ trong
trứng nước trở thành một ám ảnh không ngừng nghĩ trong tâm thức của giới cầm
quyền khống trị và bạo hành là công cụ để thực hiện.
Bạo hành nuôi dưỡng bạo
hành. Chính vì lẽ đó, có đầy dẫy chuyện cá nhân tàn hại cá nhân, cá nhân tàn
hại tổ chức, tổ chức tàn hại cá nhân, tổ chức tàn hại tổ chức, những đối tượng
tranh đoạt tàn hại lẫn nhau đưa đến chỗ tài nguyên kiệt tận, con người lầm than
khốn khó, lễ nghĩa suy đồi, đất nước tan nát.
Nếu những đối tượng cùng
nằm bên trong cơ chế cầm quyền và bộ máy khống trị đã không thể tương nhượng
nhau thì làm sao có thể dung nạp những đối tượng từ bên ngoài? Nếu khuynh hướng
hủy diệt đối lực được áp dụng triệt để lên những đối tượng nằm bên trong cơ chế
cầm quyền và guồng máy khống trị thì làm sao những đối tượng đến từ bên ngoài
có thể thoát khỏi nanh vuốt của bạo lực?
Đối với một cơ chế cầm
quyền phi dân chủ cai quản một guồng máy khống trị đất nước được xây dựng trên
nền móng bạo quyền, tản quyền là điều không thể thực sự có được vì nhu cầu của
bạo quyền là củng cố thế lực để hủy diệt đối lực. Tản quyền là tự chiết giảm
quyền lực. Tản quyền là tự để đối tượng thoát ra khỏi ảnh hưởng của móng vuốt
khống trị. Tản quyền là tự tạo cơ hội cho đối tượng xét lại. Tản quyền là tự
gieo mầm mống đe dọa về sau. Cho nên, áp dụng nguyên tắc trung ương tập quyền
là điều đương nhiên và dễ hiểu.
Chính vì trung ương tập
quyền, giới lãnh đạo và guồng máy cai trị càng ngày càng xa cách với dân, điều
hành càng ngày càng trì trệ, hiệu quả càng ngày càng suy thoái, xã hội càng
ngày càng thua sút.
Đối với một cơ chế cầm
quyền phi dân chủ cai quản một guồng máy khống trị đất nước được xây dựng trên
nền móng bạo quyền, bầu cử định kỳ để người dân thu hồi quyền lãnh đạo của
những người không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của dân và để ủy quyền cho
những người khác lên thay là điều không thể thực sự có được vì nhu cầu của bạo
quyền là phục vụ và duy nhất chỉ phục vụ cho tham vọng vô giới hạn của giới cầm
quyền khống trị đất nước.
Áp đặt một bộ máy khống trị
sắt máu là điều tất nhiên đối với một cơ chế cầm quyền phi dân chủ. Bộ máy đó
được tạo tác và củng cố liên tục để có đủ khả năng nghiền nát những lực lượng
đối lập, những phương án đối lập, những hành động đối lập, những quan điểm đối
lập. Bộ máy đó không tin bất cứ ai và rất muốn khám phá mọi âm mưu từ trong
trứng nước cho nên sẵn sàng sử dụng tất cả mọi thủ đoạn và phương tiện dầu là
những thủ đoạn và phương tiện đó có ghê tởm hèn hạ đến mấy, có phi nhân phi
nghĩa đến mấy, có để lại hậu quả khốc liệt đến mấy. Bộ máy đó luôn luôn đói
khát chiến tranh: chiến tranh giữa những phần tử bên trong nội bộ, chiến tranh
với nhân dân, và chiến tranh với những quốc gia láng giềng.
Là hệ lụy đương nhiên của
cơ chế cầm quyền phi dân chủ, bối cảnh của đất nước và thân phận của con người
trong đất nước không hơn được địa ngục âm u của loài súc sanh và ngạ quỷ.
Mỗi một con người sinh ra
vốn khác nhau và độc đáo. Sự khác nhau và độc đáo đó làm nên những cá thể riêng
biệt. Sự khác nhau và độc đáo làm nên trạng thái đa nguyên. Trạng thái đa
nguyên là sự hiện hữu của những dị biệt trong cùng một không gian và thời gian.
Đồng thời con người sinh ra vốn bình đẳng và tự do. Trong trạng thái bình đẳng
và tự do, không một cá thể nào có thể bị cưỡng đoạt mất đi cái riêng biệt của
chính mình. Đối với một xã hội văn minh thiện đức, trạng thái đa nguyên với
trạng thái bình đẳng và tự do kết hợp nhau chặt chẽ và tự nhiên.
Để bảo đảm có được sự tôn
trọng của người khác dành cho chính bản thân mình, tự nguyện tôn trọng sự khác
biệt của những cá thể chung quanh là điều hợp tình hợp lý và thiết yếu.
Để duy trì sự ổn định tự
nhiên và lâu dài mỗi người và mọi người phải đương nhiên tôn trọng sự khác biệt
của mỗi người và mọi người chung quanh, không cần biết sự khác biệt đó là khác
biệt thể dạng hay khác biệt tư tưởng, không cần biết sự khác biệt đó là do bẩm
sinh hay do nhân tạo, không cần biết sự khác biệt đó gây cảm giác ưa thích hay
khó chịu. Và sự khác biệt của mỗi cá thể trong xã hội được tôn trọng theo tinh
thần bình đẳng và tự do.
Nói một cách khác, con
người phải được quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do
biểu hiện tư duy của chính mình, tự do tìm kiếm hạnh phúc . . . và xã hội phải
tôn trọng những quyền sống căn bản này.
Nếu những khác biệt không
được tôn trọng xã hội đi đến chỗ con người sẽ nhân danh cá nhân, nhân danh gia
đình, nhân danh tập thể, nhân danh chế độ, nhân danh chủng tộc, nhân danh tôn
giáo, nhân danh đạo đức, nhân danh thần linh, nhân danh Thượng Đế, nhân danh
Đảng . . . để áp chế con người một cách trắng trợn.
Một khi sự dị biệt của một
cá nhân không được tôn trọng, cá nhân đó đã vô hình trung bị “bức tử” một cách
tàn nhẫn vì quyền sống của cá nhân đó đã bị cưỡng đoạt. Đó gọi là trạng thái
vong thân. Nếu xã hội để cho một người bị vong thân, tất cả mọi người trong xã
hội đó trước sau gì cũng sẽ bị vong thân. Vấn đề chỉ là xảy ra sớm hay muộn.
Những thể hiện dân chủ thực
sự tuyệt nhiên không thể tách rời khỏi sự chấp nhận, tôn trọng và gìn giữ trạng
thái đa nguyên. Bản chất của dân chủ thực sự tuyệt nhiên không thể tách rời
khỏi trạng thái đa nguyên. Cơ chế dân chủ thực sự tuyệt nhiên không thể tách
rời khỏi trạng thái đa nguyên. Xã hội dân chủ thực sự tuyệt nhiên không thể
tách rời khỏi trạng thái đa nguyên. Yếu tính tự do không thể tách rời khỏi
trạng thái đa nguyên. Yếu tính bình đẳng không thể tách rời khỏi trạng thái đa
nguyên. Yếu tính nhân bản cũng không thể tách rời khỏi trạng thái đa nguyên.
Đa nguyên là trạng thái tự
nhiên của trời đất. Vạn vật có muôn hình vạn trạng. Tuy có khác nhau nhưng bình
đẳng và tự do. Tuy có khác nhau nhưng hòa hợp trong đại thể của trời đất. Xã
hội của loài người cũng không khác. Tổ chức của loài người phải tôn trọng trạng
thái đa nguyên, nếu thực sự yêu chuộng văn minh thiện đức.
Không may, lịch sử đã từng
chứng minh là có những cá thể chỉ vì muốn thế giới còn lại một chủng tộc duy
nhất mà đã nhẫn tâm dùng bạo lực tàn hại sinh linh. Lịch sử đã từng chứng minh
là có những cá thể chỉ vì muốn tất cả mọi người đi theo một tôn giáo duy nhất
mà đã nhẫn tâm dùng bạo lực tàn hại sinh linh. Lịch sử đã từng chứng minh là có
những cá thể chỉ vì muốn mọi người nghe theo một tiếng nói duy nhất mà đã nhẫn
tâm dùng bạo lực để tàn hại sinh linh. Sự đối chiếu lịch sử cho thấy một điều
rất rõ rệt là tất cả những nỗ lực của con người nhằm hủy bỏ trạng thái đa
nguyên đều là những nỗ lực vô đạo. Tất cả những nỗ lực của con người nhằm đi
ngược lại với tinh thần bình đẳng và tự do trong môi trường đa nguyên đều là
những nỗ lực vô đạo. Tất cả những nỗ lực của con người nhằm đi ngược lại với
văn minh thiện đức đều là những nỗ lực vô đạo.
Từ đó, trong phạm trù tổ
chức của một quốc gia, xây dựng một xã hội văn minh thiện đức cần phải đặt trên
nền tảng đa nguyên. Tự do tín ngưỡng phải được tôn trọng. Tự do ngôn luận phải
được tôn trọng. Tự do hội họp phải được tôn trọng. Tự do biểu hiện tư duy phải
được tôn trọng. Tự do tìm kiếm hạnh phúc phải được tôn trọng. Tất cả những thứ
tự do khác phù trợ quyền sống của con người phải được tôn trọng. Cá nhân và nhà
cầm quyền phải chấp nhận sự có mặt của nhiều tôn giáo khác nhau, phải chấp nhận
sự có mặt của nhiều đảng phái và tổ chức khác nhau, phải chấp nhận nhiều hệ tư
tưởng khác nhau . . . và phải chấp nhận ngay cả những điều chính cá nhân mình
không ưa thích hoặc không đồng ý. Tất cả phải cư xử với nhau trên tinh thần
dung thứ, tương nhượng và xây dựng.
Con người sinh ra vốn bình
đẳng và tự do, trong đó có cả bình đẳng và tự do để mưu sinh và tư hữu. Đành
rằng trước khi con người được sinh ra trời đất sinh vật đã hiện hữu, và do đó,
vạn vật trong trời đất là của công hữu. Nhưng mỗi cá nhân đã bỏ tâm sức để phát
triển tư năng và vận dụng tư năng của mình để mưu sinh cho nên vật chất cá nhân
tạo được đã trở thành tư hữu. Nói một cách khác, chính vì sự lao tâm và lao lực
của mỗi cá nhân để trộn thành quả lao động của mình vào vật chất sản xuất cho
nên từ chỗ cộng sản dẫn tới chỗ tư sản là một tiến trình tất nhiên. Mọi nỗ lực
cưỡng bách con người đi ngược lại tiến trình này đều là những nỗ lực nghịch lý
và nghịch hành.
Sự sáng tạo, cần mẫn và
tiết kiệm là những đức tính đáng quý của con người. Nhờ vào sáng tạo và cần
kiệm con người mới tạo ra sự phong phú vật chất. Tự do mưu sinh và tư hữu cho
con người cái cơ hội vận dụng sự sáng tạo và cần kiệm để làm cho đời sống trở
nên phong phú hơn. Nói một cách khác, sự phong phú vật chất là thể hiện thực tế
của những đức tính tốt. Vì vậy, quyền tư hữu không những là điều đương nhiên và
hợp lý mà còn là phương tiện để thúc đẩy và biểu dương đức tính tốt của con
người.
Chưa hết. Sự thật trong đời
sống đã từng chứng minh là nghèo đói có thể đưa con người tới chỗ cùng đường,
đến chỗ vong thân, đến chỗ mất đi lễ nghĩa. Sự thật trong đời sống đã từng
chứng minh là nghèo đói cưỡng đoạt đi quyền sống căn bản của con người: quyền
được sống trong no ấm và hạnh phúc. Nếu nghèo đói đưa con người đến chỗ cùng
đường, đến chỗ vong thân, đến chỗ mất đi lễ nghĩa, đến chỗ mất đi quyền sống
căn bản thì không ai có thể phủ nhận được sự phong phú vật chất là một phương
tiện tốt để cho con người có được cái cơ hội sống đúng với tinh thần văn minh
thiện đức. Vì vậy, quyền tư hữu không những là điều đương nhiên và hợp lý;
không những là phương tiện để thúc đẩy và biểu dương đức tính tốt của con
người; mà còn là phương tiện gìn giữ quyền sống căn bản của con người chống lại
sự vong thân và mất đi lễ nghĩa.
Thêm vào đó, con người cần
phải biết chia sẻ đùm bọc lẫn nhau. Tiền nhân nước Việt đã từng dạy “lá lành
đùm lá rách.” Nhưng nếu một cá nhân không có được sự phong phú vật chất thì thử
hỏi làm sao có thể đưa người khác ra khỏi cảnh nghèo đói, khỏi chỗ cùng đường,
khỏi chỗ vong thân, khỏi chỗ mất đi lễ nghĩa dầu có đầy lòng nhân ái? Nhưng nếu
cơ chế kinh tế của quốc gia không tạo ra được sự phong phú vật chất thì thử hỏi
làm sao có thể đưa đại đa số dân chúng ra khỏi cảnh nghèo đói, khỏi chỗ cùng
đường, khỏi chỗ vong thân, khỏi chỗ mất đi lễ nghĩa dầu công quyền có đầy lòng
nhân ái? Vì vậy, quyền tư hữu không những là điều đương nhiên và hợp lý; không
những là phương tiện để thúc đẩy và biểu dương đức tính tốt của con người;
không những là phương tiện gìn giữ quyền sống căn bản của con người chống lại sự
vong thân và mất đi lễ nghĩa; mà còn là phương tiện để con người trợ giúp cho
sự sống và mạng sống của tha nhân, đồng bào, đồng loại.
Vì tất cả những lý do đó mà
quyền tư hữu được tuyệt đối tôn trọng trong xã hội văn minh thiện đức.
Muốn có được một xã hội văn
minh thiện đức, đời sống vật chất và tinh thần của con người phải hài hòa. Muốn
có được một xã hội hài hòa vật chất và tinh thần con người không thể bị cưỡng
đoạt đi quyền bình đẳng và tự do trong đó có quyền bình đẳng và tự do tư hữu,
quyền bình đẳng và tự do mưu sinh, quyền bình đẳng và tự do tìm kiếm hạnh phúc
theo nhu cầu cá nhân.
Từ đó, trong phạm trù tổ
chức của một quốc gia, một cơ chế phù trợ văn minh thiện đức phải là một cơ chế
tuyệt đối tôn trọng quyền tư hữu; phải là một cơ chế cho con người những cơ hội
tìm kiếm hạnh phúc theo nhu cầu cá nhân; phải là một cơ chế khích lệ sự sáng
tạo và cần kiệm; phải là một cơ chế có thể đưa đại đa số dân chúng ra khỏi cảnh
nghèo đói, khỏi chỗ cùng đường, khỏi chỗ vong thân, khỏi chỗ mất đi lễ nghĩa; phải
là một cơ chế có khả năng phong phú hóa đời sống con người; phải là một cơ chế
bảo đảm tài sản tư hữu của cá nhân không bị tước đoạt bởi bạo quyền.
Và vì không sợ bị cưỡng
đoạt bởi bạo quyền, tài sản tư hữu của cá nhân được tự do vận dụng theo nguyên
tắc thị trường để đầu tư vào công cụ sản xuất. Công cụ sản xuất là phương tiện
căn bản có thể phong phú hóa vật chất để cải thiện đời sống của người dân. Đem
đầu tư tài sản cá nhân tạo ra phong phú vật chất để cho mọi người cộng hưởng,
dầu nhiều ít có thể khác nhau, là noi theo huyền tích Ky Tô [dùng một miếng
bánh mì tạo ra thêm nhiều miếng bánh mì chia xẻ cho giáo dân] theo tinh thần
nhân ái của Thiên Chúa. Đem đầu tư tài sản cá nhân tạo ra phong phú vật chất để
cho mọi người cộng hưởng, dầu nhiều ít có thể khác nhau, là hành động chia sẻ
mà không biết mình đã chia sẻ, không biết đến người nhận sự chia sẻ, không biết
đã chia sẻ bao nhiêu. Đó là noi theo tinh thần bố thí ba la mật của chư Bồ Tát.
Một cơ chế điều hành đất nước biết tận dụng yếu tính tư hữu để có thể tạo ra
công ích rộng lớn là một cơ chế điều hành đất nước phù hợp với văn minh thiện
đức.
-oOo-
Tóm lại, trong một xã hội
văn minh thiện đức bình đẳng và tự do của con người được tuyệt đối tôn trọng,
trạng thái đa nguyên được tuyệt đối tôn trọng, và quyền tư hữu được tuyệt đối
tôn trọng. Bình đẳng, tự do, dân chủ, dân quyền, nhân quyền, đa nguyên và tư
hữu là những yếu tính “đạo đức” không thể thiếu vắng để có được cái gọi là “một
xã hội văn minh thiện đức.”
Iris Vinh Hayes
.
.
.
No comments:
Post a Comment