Chuyện
một người lính phản chiến
Nguyễn Tuấn Khoa
13/08/2024
https://baotiengdan.com/2024/08/13/chuyen-mot-nguoi-linh-phan-chien/
Đồn tiền
tiêu của Trung Đoàn 16, Sư Đoàn 9 Bộ Binh ở Cầu Kè xây dựng xong trong 6 tháng.
Từ ngày đó, xóm làng quanh đồn không một ngày im tiếng súng. Đã hai năm lính
nhưng trung úy Nguyễn Văn Hồng vẫn còn băn khoăn về nghiệp lính mà anh đang
mang. Lệnh đôn quân đã đưa anh vào trường Bộ Binh Thủ Đức, để rồi giờ đây, nơi
tiền đồn này, hàng ngày anh phải chứng kiến cảnh máu đổ thịt rơi của những người
anh em từ cả hai phía.
Khu vực Cầu
Kè là vùng “xôi đậu”, ngày là Quốc Gia, đêm là Việt Cộng. Thật khó phân định
đâu là dân, đâu là du kích. Người Cộng Sản thật khôn ngoan khi lôi kéo người
dân vào cuộc chiến với nhiệm vụ của một người lính thực sự. Họ là nông dân, là
học sinh nhưng phải nhận lệnh đi gài mìn, bắn vào đối phương rồi sau đó trở lại
đi học, làm ruộng. Chiến Tranh Nhân Dân mà thực chất là chiến tranh không quy ước
này tuy không nhiều vũ khí giết người nhưng lại đưa cuộc chiến lên đỉnh điểm của
sự phi nhân tính.
Một buổi tối
bình yên trôi qua. Gần sáng, một tiếng nổ lớn trong làng làm rung động đồn gác.
Sáng ra trung úy Hồng cùng đồng đội đến vị trí nổ đêm qua. Kinh hoàng! Một đứa
bé trạc 14 tuổi, mặc áo sơ-mi trắng đã bị mìn phá nát nửa người bên dưới. Thật
thương tâm.
Chuyện này
cứ xảy ra hoài. Lính đạp phải mìn thì ít, thường dân nhiều hơn. Không biết thằng
bé đạp phải mìn do du kích cài hay nó nhận nhiệm vụ đi cài mìn rồi sơ ý làm nổ?
Hồng thất thần trở về đồn, rít một hơi thuốc thật sâu như để xóa mùi tanh. Giọng
Khánh Ly từ chiếc máy cassette cũ bình thản như đang kể về một cái chết
oan nghiệt
vừa xảy ra.
Một buổi
sáng mùa xuân,
Một đứa
bé ra đồng,
Đạp
trái mìn nổ chậm,
Xác
không còn đôi chân.
(Một Buổi
Sáng Mùa Xuân – Trịnh Công Sơn)
Những cuộc
tuần tra và bố ráp những ngày sau đó, lính bắt được nhiều người tình nghi. Sau
thẩm vấn nhóm điều tra chỉ giữ lại hai người có quả tang: Một ông già khoảng 70
tuổi và một đứa bé 15 tuổi gầy trơ xương. Tờ trình về nhân thân của hai Việt Cộng
(VC) này được đặt trên bàn của trung úy Hồng.
Đêm hôm
đó, sau nhiều giờ thẩm vấn trực tiếp, trung úy Hồng thấy rằng hai VC này chỉ là
thường dân, không làm theo mệnh lệnh của VC thì gia đình họ phải trả giá bằng
tính mạng. Họ là nạn nhân của chiến tranh không quy ước đang bị cả thế giới văn
minh lên án.
Nhìn thân
hình tiều tụy của hai VC sau nhiều ngày tra tấn, người trung úy phản chiến đã
âm thầm làm chuyện động trời. Dàn xếp cho hai VC bỏ trốn! Anh đã dặn dò họ thật
kỹ rằng: Khi rời khỏi đồn phải trốn về thành, mai danh ẩn tích, làm việc nhân
nghĩa để mưu sinh. Không được trở về với VC vì sẽ bị nghi là tình báo do lính
Quốc Gia cài trở lại. Họ đi xuyên đêm đen vô tận. Đi đâu, về đâu?
Những ngày
sau đó anh sống với tâm trạng dằn vặt. Vừa làm nhiệm vụ của người sĩ quan ở tiền
tuyến, vừa phải tránh cảnh máu đổ thịt rơi, vừa mơ về một đất nước thanh bình.
Những lần hành quân, trong tai anh luôn văng vẳng giọng Khánh Ly với Phụ Khúc
Da Vàng của Trịnh Công Sơn.
Khi đất
nước tôi thanh bình
Tôi sẽ
đi thăm, nhiều nghĩa địa buồn
Đi xem
mộ bia nhiều như nấm.
Khi đất
nước tôi không còn chiến tranh
Mẹ già
lên núi tìm xương con mình
Khi đất
nước tôi không còn chiến tranh
Bạn bè
mấy đứa vừa xanh nấm mồ.
Khi đất
nước tôi không còn giết nhau
Trẻ con
đi hát đồng dao ngoài đường
(Tôi Sẽ Đi
Thăm- Trịnh Công Sơn)
Một ngày định
mệnh của tháng 12 năm 1969, Hồng nhận lệnh cùng đại đội đi tiên phong để phối hợp
với hai đại đội ở mặt trận phía Đông. Bước chân người lính lướt đi trên con đường
mòn quen thuộc. Gần đến nơi, hai tiếng nổ long trời gần như cùng lúc, hất tung
trung úy Hồng và những người đi đầu. Thế là xong một kiếp người. Kết thúc một
giấc mơ. Trong giây phút ngắn ngủi còn lại, Hồng nghĩ đến người vợ với ba con
thơ, một trai hai gái, thương nhất là bé gái chưa đầy tháng.
“Anh nằm
xuống cho hận thù vào lãng quên” – Trịnh Công Sơn
Anh ra đi
là một sự giải thoát khỏi cuộc chiến giữa những người anh em. Anh không oán
trách ai đó đã gài mìn dù đó là hai VC một-già-một-trẻ mà anh đã thả. Chiến
tranh thật nghiệt ngã. Để ghi nhớ chiến công của người lính can trường, trung
tá trung đoàn trưởng Trung Đoàn 9 Huỳnh Văn Chính đã thừa lệnh Sư Đoàn Trưởng
vinh thăng ông lên đại úy. Trung đoàn đã xây một trường tiểu học mang tên Nguyễn
Văn Hồng tại Cống Đất Méo, cách thị xã Vĩnh Long 20 km rồi đưa bà quả phụ Hồng
về dạy tại đây.
Bảy năm
sau ngày ông Hồng hy sinh, giấc mơ của ông mới trở thành sự thật. Đất nước hòa
bình nhưng không thanh bình. Nét lo lắng hằn trên gương mặt mỗi người.
“Khi đất
nước tôi không còn giết nhau
Mọi người
ra phố mời rao nụ cười”.
(Trịnh Công Sơn)
Bà Hồng,
có chồng là sĩ quan VNCH, đang dạy ở trường mang tên chồng, bị buộc ngưng dạy
ngay khi tựu trường trở lại. Các cô giáo khác có chồng làm lính cũng rời trường
sau đó ít lâu.
Một tháng
sau, chỉ một mình bà Hồng được gọi đi dạy trở lại trước sự ngỡ ngàng của mọi
người. Bà linh cảm rằng có một bàn tay bí mật nào đó trong quyết định khó hiểu
này. Ân huệ này quá lớn vì nó giúp cho những đứa con thơ của bà không rơi vào cảnh
chết đói. Bà lúc nào cũng lo sợ tai họa lại ập đến một lần nữa nên luôn chu
toàn nghiệp sư phạm.
Thấm
thoát, hai đứa đầu đã 17 và 18 tuổi. Nhờ ơn Trời-Phật, cả hai đứa đều đậu vào đại
học Tổng Hợp khoa Toán và khoa Sinh. Bà như ngất đi vì sung sướng.
Niềm vui
chưa tày một gang, biến cố lại đổ ập xuống nhà bà. Cả hai đứa dù đã vượt qua một
ngưỡng điểm đầy bất công nhưng không được đi học. Lý lịch của cha đã chặn lối
vào đời của tụi nhỏ. Đứa con gái, suốt một tuần, ngày nào cũng ngồi đồng ở văn
phòng Ủy Ban tỉnh Cửu Long để xin gặp ông Chủ Tịch.
Một ngày,
có người ra mách nước rằng, hãy đến nhà ông Ba Trà, Trưởng Ban Tuyển Sinh. Suốt
một tuần, ngày nào về đến nhà, ông Ba Trà cũng thấy con bé ngồi đó, dù ông đã từ
chối tiếp. Cuối cùng, ông buộc ngồi xuống lắng nghe. Con bé nói trong nước mắt:
– Ba con
đã chết trận lúc con 2 tuổi. Sao chuyện của người lớn con nít phải gánh chịu?
Bây giờ con đậu nhưng chấp nhận rớt. Vậy bác cho anh hai con đi học đi.
Ông bối rối
vì lập luận của con bé ngây thơ. Ông nói ngắn rằng chuyện này lớn quá, ông
không có quyền làm khác và hứa sẽ trả lời. Ít hôm sau con nhỏ lại đến nhà. Ông
nói, kêu anh con lên Ban nhận Giấy Báo Trúng Tuyển. Anh con phải chuyển sang học
khoa Toán đại học Sư Phạm.
Con nhỏ
khóc nấc, vừa mừng vừa tủi. Bà mẹ thì vừa mừng vừa lo vì không biết còn tai họa
gì nữa không? Chuyện này chưa có tiền lệ nên bà lại linh cảm rằng có bàn tay bí
mật nào đó trong quyết định khó hiểu này?
***
Tôi lần
theo câu chuyện bà nhạc kể rồi tìm ra trường tiểu học Nguyễn Văn Hồng năm xưa.
Nơi đây, bây giờ là Trạm Y Tế thị trấn Long Hồ, còn trường dời sang bên kia đường,
mang tên Trường Tiểu học Thị trấn Long Hồ.
Làng quê
thật yên bình, tôi không cảm nhận sự khốc liệt nơi ông từng tham chiến. Những
người đồng đội của ông, những người bên kia chiến tuyến và cả hai Việt-Cộng-một
già-một trẻ chắc bây giờ đã trở về với cát bụi hoặc không còn ở đỉnh cao quyền
lực nữa.
Hôm nay
đám giỗ lần thứ 56 của ông. Tôi thắp một nén nhang lên bàn thờ với lời khấn
dành cho tất cả những người đã nằm xuống ở hai bên chiến tuyến, rằng họ sẽ mãi
mãi là bạn, là anh em của nhau.
“Quen lạ
bạn thù chung giấc ngủ.
Chung lời
thương tiếc khóc trên bia”.
(Tô Thùy
Yên)
No comments:
Post a Comment