Việt
Nam : Hiệp định Paris 1973 chỉ là một cuộc hưu chiến tạm thời
Đức Tâm - RFI
Đăng ngày: 30/01/2023 - 16:04Sửa đổi
ngày: 30/01/2023 - 16:11
Ngày 27/01/1973, tại Paris, Pháp, Hoa Kỳ, Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa, Việt Nam Cộng Hòa và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền
Nam Việt Nam đã ký hiệp định ngừng bắn, tái lập hòa bình tại Việt Nam – Hiệp định
Paris. Đây là động thái ngoại giao cuối cùng kết thúc bốn năm đàm phán và các
hàng chục cuộc gặp bí mật, được tiến hành từ ngày 13/05/1968, giữa cố vấn đặc
biệt của chính quyền Bắc Việt Nam Lê Đức Thọ và cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ
Henri Kissinger.
Sau khi ký kết Hiệp định Paris giữa Mỹ và Bắc Việt tại Trung Tâm Hội Nghị
Quốc Tế, đại lộ Kleber, Paris, Pháp, ngày 23/01/2973. Từ trái qua: Bộ trưởng
Xuân Thủy, cố vấn Lê Đức Thọ, cố vấn Henry Kissinger, thứ trưởng Ngoại Giao
Nguyễn Cơ Thạch. AP - Anonymous
Chấm dứt chiến tranh về mặt « lý thuyết »
Thế nhưng, con đường tái lập hòa bình tại Việt
Nam còn đầy chông gai. Sau khi ký Hiệp định Paris, chiến sự vẫn nổ ra gần như
hàng ngày giữa lực lượng Cộng Sản và quân đội Sài Gòn (Việt Nam Cộng Hòa).
Và hai bên tham chiến chủ chốt trong cuộc chiến
tranh kéo dài nhiều năm trời này – Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam - cũng biết điều
đó.
Thực vậy, Hiệp định Paris bao gồm những vấn đề
chính như thỏa thuận ngừng bắn, giải pháp chính trị ôn hòa cho phép tổng thống
Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục nắm quyền, thừa nhận tính chính
đáng của Chính Phủ Cách Mạng (Việt Cộng), quân đội Mỹ rút ra khỏi miền Nam Việt
Nam, trao trả tù binh, thế nhưng không có một câu chữ, một điều khoản nào liên
quan đến việc rút các lực lượng quân sự của Bắc Việt ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Thế nhưng, Washington và Bắc Việt Nam cần bản
Hiệp định này. Phe cộng sản Việt Nam muốn chấm dứt sự hiện diện của quân đội Mỹ
tại Việt Nam và tiến hành thống nhất đất nước, vốn bị chia cắt từ năm 1954 sau
Hiệp định Geneve. Còn phía Mỹ thì muốn rút quân, đón nhận các tù binh. Theo một
số nhà phân tích, khi ký Hiệp định Paris, Mỹ hy vọng có được một « thời
gian hợp lý » kể từ khi lính Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam và sự sụp đổ của
chế độ Sài Gòn.
.
Đàm phán sau các chiến dịch quân sự
Hoa Kỳ và Bắc Việt bắt đầu đàm phán trong bối
cảnh lực lượng Cộng Sản Việt Nam đạt được một thắng lợi ngoại giao to lớn với
chiến dịch tấn công Tết Mậu Thân 1968, cho dù bị thiệt hại nặng về nhân mạng.
Theo số liệu của Bắc Việt, khoảng 80 ngàn chiến
binh hầu như đồng thời phát động tấn công, nổi dậy ở hơn 100 thành phố, địa
phương ở miền Nam Việt Nam, thậm chí tấn công cả vào đại sứ quán Mỹ tại Sài
Gòn.
Chính quyền của tổng thống Richard Nixon không
thể giảm nhẹ sức kháng cự của lực lượng Cộng Sản. Tại Mỹ, có nhiều tiếng nói
đòi rút binh sĩ về nước.
Các cuộc đàm phán tại Paris bao gồm hai loại
cuộc họp khác nhau : Một bên là các cuộc gặp chính thức tại Trung tâm Hội
nghị Quốc tế, đại lộ Kleber, Paris, Pháp và bên kia các cuộc đàm phán bí mật giữa
Lê Đức Thọ và Henry Kissinger tại nhiều nơi ở ngoại ô Paris, như Choisy-le-Roi,
Gif-sur-Yvette, Saint-Nom-la-Bretèche…
Có hai giai đoạn đàm phán. Giai đoạn đầu, từ
tháng 05 đến tháng 10/1968, chỉ có các cuộc gặp song phương giữa Lê Đức Thọ và
Henry Kissinger, chủ yếu đề cập đến việc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam.
Giai đoạn hai, từ 01/1969 đến 27/01/1973, bao gồm bốn bên, ngoài đại diện
Hoa Kỳ, Bắc Việt Nam, còn có đại diện chính quyền Sài Gòn và Chính Phủ Cách Mạng
(Việt Cộng), tập trung đàm phán về việc Mỹ rút quân và tình hình chính trị miền
Nam Việt Nam.
Tổng thống Mỹ Nixon và cố vấn Kissinger trong
một thời gian dài đã nghĩ rằng với sức mạnh ưu thế về quân sự, họ có thể gây sức
ép với Bắc Việt để đạt được một hiệp định hòa bình theo ý muốn. Hầu như cứ mỗi
lần đàm phán rơi vào bế tắc, Kissinger lại chủ trương leo thang vũ lực :
tháng 04/1970, lực lượng Mỹ và binh sĩ Sài Gòn tấn công vào Cam Bốt với mục
đích ngăn chặn đường mòn Hồ Chí Minh, con đường tiếp viện chủ chốt của Bắc Việt
Nam cho Việt Cộng ở miền Nam, đồng thời, phá hủy các cứ địa của Việt Cộng đặt
trên đất Cam Bốt.
Chiến dịch thất bại. Tháng 10/1970, Nixon đưa
ra hai đề xuất, ngừng bắn và Mỹ chấm dứt ném bom trên toàn Đông Dương, và coi
đây là cơ sở cho một Hội nghị hòa bình cho phép Mỹ rút quân ra khỏi Đông Dương.
Thế nhưng, Bắc Việt Nam bác bỏ đề xuất này và đòi tổng thống Việt Nam Cộng Hòa
Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi.
Cuối năm 1970, vào lúc chính quyền Nixon muốn
tiến hành chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, Kissinger đề nghị mở một cuộc tấn
công mới vào Lào, chiến dịch « Lam Sơn 719 ».
Sau hai năm liên tiếp ném bom, chiến sự ác liệt
và đàm phán không kết quả, Hoa Kỳ buộc phải xem xét lại mục tiêu đề ra nếu họ
muốn giải quyết cuộc xung đột thông qua đàm phán : đó là cần phải đạt được
một hiệp định cho phép chính quyền Sài Gòn tồn tại một thời gian đủ dài sau khi
Mỹ rút quân, trong bối cảnh nguy cơ chính quyền này sụp đổ ngày càng gia tăng.
.
Giai đoạn cuối cùng
Cuối tháng 03/1972, lực lượng cộng sản Việt
Nam mở chiến dịch thu-hè. Thất bại của chiến dịch này cùng với việc tổng thống
Mỹ Nixon gần như chắc chắn tái đắc cử, đã tác động đến quyết địch của Bắc Việt
Nam nối lại các cuộc đàm phán với Hoa Kỳ.
Ngày 12/10/1972, Hoa Kỳ và Bắc Việt đã đạt được
thỏa thuận với các nội dung không khác gì nhiều so với bản Hiệp định Paris mà
các bên sẽ ký vào ngày 27/01/1973. Thế nhưng, tổng thống Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu
không chấp nhận nội dung này mà ông coi là một vụ « tự sát » :
quân đội Bắc Việt được phép ở lại miền Nam Việt Nam (vì hiệp định không hề nhắc
tới lực lượng này) trong khi binh sĩ Mỹ phải ra đi.
Cuộc đàm phán giữa Lê Đức Thọ và Henry
Kissinger được nối lại vào ngày 20/11/1972, nhưng bế tắc. Phía Mỹ đưa ra những
đề nghị sửa đổi văn bản ngày 12/10. Bắc Việt cũng làm tương. Hai bên ngừng đàm
phán ngày 13/12.
Ngày 18/12/1972, Hoa Kỳ huy động hàng chục máy
bay ném bom chiến lược B52, tiến hành chiến dịch ném bom ồ ạt xuống nhiều thành
phố Bắc Việt Nam, kể cả thủ đô Hà Nội trong vòng 11 ngày. Theo giới phân tích,
mục tiêu của chiến dịch không chỉ nhằm buộc Bắc Việt quay lại bàn đàm phán, mà
còn muốn gửi tới tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu thông điệp :
Ông ta không thể hy vọng có được một hiệp định tốt hơn văn bản hồi tháng
10/1972.
Ngày 26/12, Bắc Việt Nam bắn tín hiệu sẵn sàng
quay lại bàn đàm phán nếu Mỹ ngừng ném bom. Các cuộc thương lượng được nối lại
ngày 03/01/1973 tại Pháp. Và 10 ngày sau, 13/01, Mỹ và Bắc Việt đạt được một thỏa
thuận với nội dung chính giống như văn bản hồi tháng 10/1972.
Ngày 23/01/1973, Lê Đức Thọ và Henry Kissinger
ký thỏa thuận và bốn ngày sau, 27/01 lễ ký kết chính thức diễn ra tại đại lộ
Kleber, Paris.
Ngay từ lúc đó, tất cả các bên ký kết đều biết
là chiến tranh sẽ tiếp tục. Theo các tài liệu vừa được công bố, vào năm 1973,
khi quyết định tặng giải Nobel Hòa Bình cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ
(nhưng ông Thọ đã từ chối), Ủy ban Nobel Hòa bình đã biết là Hiệp định Paris sẽ
không mang lại hòa bình cho Việt Nam.
Hai năm sau, 30/04/1975, lực lượng Cộng Sản tiến
vào Sài Gòn, chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ và nước Việt Nam thống nhất.
-------------
Tham khảo
2/ https://blog.mondediplo.net/2015-04-13-Vietnam-au-coeur-des-negociations-secretes
3/ https://www.cairn.info/revue-relations-internationales-2008-3-page-53.htm
======================================================
.
Chiến
tranh Việt Nam : Vai trò của Pháp trong Hiệp định Paris 1973
Thu Hằng - RFI
Đăng ngày: 30/01/2023 - 16:00
Ngày 27/01/1973, cách đây đúng 50 năm, Hiệp định về
Việt Nam được ký ở Paris sau gần 5 năm đàm phán, bắt đầu từ ngày 13/05/1968.
Dân tộc Việt Nam đã khiến đế quốc Mỹ phải khuất phục, theo nhật báo Cộng sản
của Pháp L’Humanité, trong số kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định Paris, nhưng thực
tế, phải chờ hai năm sau, chiến tranh mới chính thức chấm dứt, do Washington tiếp
tục hậu thuẫn, vũ trang cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Đại diện của phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền bắc Việt Nam) Nguyễn
Duy Trinh (G) trong lễ ký Hiệp định Paris ngày 27/01/1973, tại Trung tâm Hội
nghị Quốc tế trên đại lộ Kleber, Paris, Pháp. © AFP
Trong suốt thời gian đàm phán tại Paris, chính
phủ Pháp đã đóng vai trò quan trọng, từ công tác hậu cần đến những ý tưởng được
đưa vào Hiệp định Paris. Giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud, Đại học
Paul Valéry - Montpellier III phân tích vai trò của Pháp trong buổi phỏng vấn với RFI
Tiếng Việt nhân 50 năm ký Hiệp định Paris.
RFI : Xin ông cho biết lý do
và bối cảnh diễn ra Hội nghị 1973 tại Paris !
Giáo sư Pierre Journoud : Hội nghị năm 1973 diễn ra tại Paris sau gần 5
năm đàm phán công khai bí mật và riêng tư. Nếu Paris được các bên trong cuộc
xung đột - Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng với đồng minh của mỗi
bên - lựa chọn là bởi vì Pháp theo đuổi một chính sách ngoại giao mà sau này được
đánh giá là "tạo điều kiện thuận lợi" với sự pha trộn
giữa ngoại giao công khai, ngoại giao bí mật để đẩy nhanh việc kết thúc chiến
tranh.
Chính sách này đã được tướng De Gaulle triển
khai rõ ràng ngay năm 1965-1966, với những lá thư trao đổi với chủ tịch Hồ Chí
Minh, với bài diễn văn Phnom Penh năm 1966, cũng như những trao đổi rất sâu sắc
về kế hoạch ngoại giao không chỉ với các quốc gia tham chiến mà cả các cường
quốc khu vực và trên quốc tế, như Trung Quốc, Liên Xô… những nước ủng hộ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả những tương tác giữa ngoại giao công chúng và ngoại
giao bí mật đã dẫn đến việc các bên tham chiến chọn Paris để ngồi vào bàn đàm
phán. Ngoài ra, hình dạng của chiếc bàn đàm phán cũng là chủ đề của nhiều cuộc
trao đổi trong hơn một tháng, cũng như việc xem xét tiếp đón ở đâu, như thế nào
các phái đoàn đồng minh, trong đó một bên có Việt Nam Cộng hòa, bên kia có Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Có thể thấy điểm quan trọng đầu tiên là Pháp
có chính sách tạo thuận lợi, tiếp đến là các phương tiện liên lạc ở Paris
đều được tất cả các đối tác khen ngợi. Và phải kể đến các cơ sở ngoại
giao, có nghĩa là tất cả các bên trong cuộc xung đột đều có đại diện, không chỉ
Hoa Kỳ, một đồng minh lâu đời của Pháp, thông qua đại sứ quán, mà cả
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với một phái đoàn, hoặc Việt Nam Cộng hòa cũng có một
phái đoàn, rồi Mặt trận Dân tộc Giải phóng sau này trở thành Chính phủ Cách mạng
Lâm thời miền Nam Việt Nam - GRP - được công nhận thông qua một văn
phòng đại diện từ năm 1969. Đây là một yếu tố quan trọng đối với Hà Nội.
Lý do có thể được cho là cuối cùng, đó là sự
hiện diện quan trọng của cộng đồng người Việt tại Pháp, đặc biệt là ở
Paris. Đó là một cộng đồng tương đối ủng hộ chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa nói chung.
Đây là những lý do giải thích cho việc chọn
Paris để tổ chức hội nghị năm 1973, cho dù một số tổng thống Mỹ tỏ ra rất miễn
cưỡng, nhất là tổng thống Johnson năm 1968, nhưng sau đó đã được xóa bỏ nhờ một
số lập luận của các cố vấn dân sự. Còn tổng thống Nixon, khi lên nắm quyền thì
hội nghị đã mở ra ở Paris từ năm 1969, đã có cái nhìn tích cực hơn nhiều về tướng
De Gaulle và người kế nhiệm là Georges Pompidou, về nước Pháp nói chung và đóng
góp của Pháp. Vì vậy, tổng thống Nixon không bao giờ thắc mắc về việc lựa chọn
Paris. Phía miền Nam và miền Bắc Việt Nam cũng tương tự.
.
RFI : Pháp đã đóng vai trò rất quan trọng
trong việc tổ chức hội nghị, cũng như thành công của Hội nghị Paris năm 1973.
Vai trò cụ thể của Pháp là gì ?
GS. Pierre Journoud : Đúng, vai trò của Pháp được Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công
nhận một cách khá kín đáo trong các trao đổi, thư từ mà tôi tìm thấy trong
tài liệu lưu trữ, đặc biệt là của Pháp và Mỹ. Trước tiên, Pháp cung cấp cơ
sở vật chất, cụ thể là nơi ăn ở, theo lời một giám đốc phụ trách châu Á của bộ
Ngoại Giao Pháp, như nơi ở cho các phái đoàn, phòng họp, bắt đầu với phòng hội
nghị quốc tế trên đại lộ Kleber.
Nhưng tôi cho rằng, ngoài mặt vật chất, Pháp
đã góp phần nuôi dưỡng đối thoại liên tục. Sau khi nghiên cứu rất nhiều tài liệu,
tôi thấy là ngành ngoại giao Pháp rất năng động trong việc bao quát, nỗ lực nắm
bắt tình hình chính trị, quân sự trên chiến trường, cố gắng tìm kiếm những
thỏa hiệp cần thiết cho thành công cuối cùng của cuộc đàm phán. Một số ý tưởng
của Pháp xuất hiện trong quá trình soạn thảo văn bản Hiệp định Paris. Ví dụ một
ý tưởng đã được tướng De Gaulle đưa ra từ rất sớm trong bài diễn văn đọc tại
Phnom Penh năm 1966 là người Mỹ không thể có một chiến thắng quân sự và họ phải
đàm phán. Vì vậy, ông đã sớm nêu lên giải pháp đàm phán trên bình diện ngoại
giao và việc Mỹ phải rút quân trong một khung thời gian phù hợp, ấn định.
Ngành ngoại giao Pháp còn đưa ra ý tưởng đàm
phán cùng lúc các mặt chính trị và quân sự - điều được thực hiện sau
này trong quá trình đàm phán, cũng như ý tưởng trả tự do cho tù binh song
song với các cuộc đàm phán. Ngoài ra còn có nhiều ý tưởng khác, như về tính
trung lập của bán đảo Đông Dương, đặc biệt là Lào và Cam Bốt.
Có thể thấy quy mô cấp vùng của cuộc đàm phán,
kết quả đám phán mà theo tôi, nhờ nỗ lực của một số nhà ngoại giao. Ví dụ trước tiên là Etienne
Manac'h, giám đốc phụ trách châu Á của bộ Ngoại Giao Pháp, người đã
dành nhiều thời gian nói chuyện trong hậu trường với tất cả các bên Việt Nam và
Hoa Kỳ, tiếp theo là người kế nhiệm Henri Froment-Meurice. Ngoài ra, phải kể đến
một số nhà trung gian, không phải là những nhà ngoại giao chuyên nghiệp,
mà là những nhân vật chính trị hoặc xã hội dân sự ở
Pháp. Tôi đặc biệt nghĩ đến Jean Sainteny hay Raymond Aubrac, một người bạn
thân của chủ tịch Hồ Chí Minh và đóng vai trò bí mật trong các
cuộc đàm phán này cho đến lúc ký Hiệp định Paris
năm 1973.
Toàn bộ ngành ngoại giao Pháp không ngừng kêu
gọi “Việt Nam hóa hòa bình, chứ không phải chiến tranh”, theo cách
gọi của ngoại trưởng Pháp Maurice Schumann. Đây thực sự là kim
chỉ nam của ông, cho dù tôi nghĩ đôi lúc là đầy ảo tưởng.
Nhưng dù sao, khẩu hiệu đó đã được sử dụng để cụ thể hóa đến cùng mục
tiêu đó.
.
RFI : Hiệp định Paris được ký ngày 27/01/1973,
nhưng chiến tranh không kết thúc ngay. Tại sao Hiệp định lại không được tuân thủ
?
GS. Pierre Journoud : Đúng thế, các cuộc giao tranh nhanh chóng tái diễn trên chiến trường.
Thỏa thuận đình chiến đã bị vi phạm nhiều lần. Rất khó để biết là ai,
khi nào, như thế nào... Nhưng các bên đổ trách nhiệm cho nhau đến mức
vào tháng 06/1973, bộ Chính trị quyết định tiếp tục đấu tranh vũ
trang, bởi vì đã có quá nhiều vụ vi phạm ngừng bắn.
Một lý do khác, có lẽ các điều khoản
chính trị của Hiệp định lại khá viển vông vì một trong những điều khoản chính
là tập hợp một chính quyền lâm thời gồm 3 thành phần, gồm phía Cộng sản,
chống Cộng sản và trung lập. Khi biết lịch sử chiến
tranh Việt Nam, chúng ta thấy rằng những người theo Cộng sản và những người
chống Cộng đã trải qua nhiều năm chiến tranh chống lại
nhau nên có thể nghi ngờ rằng ngồi cùng bàn và suy tính cách cùng nhau quản lý
là việc vô cùng khó khăn, nếu không muốn nói là hoàn toàn viển vông.
Tôi nghĩ điều mà
các nhà đàm phán tìm kiếm có phần nào ảo tưởng, ví dụ ngoại
trưởng Mỹ Henry Kissinger với ý tưởng là sẽ có một "khoảng
cách hợp lý" (decent interval) theo cách ông gọi với tổng thống Nixon.
Có nghĩa là có thể duy trì một miền Nam Việt Nam vẫn độc lập,
không theo Cộng sản trong vài năm để giữ thể diện cho Hoa Kỳ.
Còn phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng mong tạm dừng giao tranh để củng
cố lực lượng, tiếp tục cuộc chiến, lần này là giữa người Việt với nhau.
Vì thế, những điều khoản chính trị của Hiệp định Paris
chưa bao giờ được áp dụng, điều này giải thích cho việc giao tranh nhanh
chóng tái diễn. Nhưng tôi nghĩ rằng trách nhiệm đầu tiên là từ phía miền Nam
Việt Nam, bên vẫn tìm cách đàm phán lại thỏa thuận tháng 10/1972.
Khi biết được những điều khoản chính của Hiệp
định này từ ngoại trưởng Henry Kissinger, tổng thống Thiệu của Việt
Nam Cộng Hòa lúc đó đã bác bỏ ít nhất 70
yếu tố trong Hiệp định và tìm cách đàm phán lại nhưng Hà
Nội từ chối. Đây là lý do dẫn đến chiến dịch ném bom Linebacker
II, còn được gọi là Giáng sinh chết chóc 1972 và nối lại các cuộc đàm
phán vào cuối năm 1972 - đầu 1973 cho đến khi đúc
kết vào tháng 01/1973.
Nhưng bộ Chính trị của đảng Cộng sản Việt
Nam thấy là đã giành được một thành công chiến lược với Hiệp định Paris
và biết rằng việc thống nhất sớm muộn cũng nghiêng về phía họ, trong khi chờ đợi
thời cơ thuận lợi để tiếp tục chiến tranh. Trong buổi hội thảo được đại sứ quán Việt
Nam tổ chức ngày 18/01/2023 tại Paris, người lái xe của bà Nguyễn
Thị Bình cho biết là bà đã nói với ông khi rời khỏi cuộc họp quan trọng hồi
tháng 01/1973 rằng "từ giờ chuyện sẽ được giải quyết trong
gia đình". Bà biết rõ rằng Hiệp định Paris
đã mở ra một giai đoạn mới cho cuộc chiến. Và tôi nghĩ là bà cũng biết rằng Hiệp
định sẽ không được tôn trọng lâu. Chuyện đó đã xảy ra. Các vụ vi phạm
ngừng bắn liên tục gia tăng, chiến tranh tái diễn cho đến năm 1975.
.
RFI : Như ông vừa nói, cho
dù có nhiều nỗ lực nhưng phải chờ đến năm 1975 chiến tranh mới chấm dứt ở Việt
Nam. Vậy cụ thể, vai trò của Pháp như thế nào trong hai năm đó ?
GS. Pierre Journoud : Đúng, đây là một câu hỏi ít được nghiên cứu cho đến hiện
nay. Trên thực tế, Pháp rất năng động cho đến năm 1973
khi Hiệp định Paris được ký kết, thậm chí là sau đó vì còn có một hội nghị quốc
tế được tổ chức ở thành phố La Celle-Saint-Cloud, ngoại ô Paris, để góp phần
huy động các Nhà nước, các cường quốc về hòa bình ở Việt Nam.
Pháp cam kết hỗ trợ đến 100 triệu franc
lúc đó cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cho chính phủ lầm
thời ở miền Nam. Có thể thấy Pháp cam kết rất mạnh mẽ và là
một trong những nước châu Âu lúc đó đóng góp nhiều nhất cho việc tái thiết Việt Nam,
về tài chính, hoạt động công nghiệp, kinh tế... Đó là cam kết trước tiên về mặt kinh tế.
Tiếp theo, Pháp luôn theo dõi sát sao
tình hình chính trị và quân sự trên thực địa, nhưng có thể nói là một bước thụt
lùi so với chính sách của tướng De Gaulle. Trong
thâm tâm, tướng De Gaulle đã chấp nhận rằng việc thống nhất Việt Nam
diễn ra dưới quyền của đảng Cộng sản bởi vì theo ông,
đó là lực lượng quyết tâm nhất, có tổ chức nhất, thông minh nhất. Và lịch sử đã
cho thấy ông có lý.
Nhưng vấn đề là tháng 06/1969,
Georges Pompidou lên nắm quyền thay tướng De Gaulle. Tổng thống Pompidou
lại có đường lối khác hơn một chút, ủng hộ duy trì một chế độ ở
miền nam Việt Nam. Và đường lối chính trị này dẫn đến một tuyên bố
chính thức của ông vào năm 1970 : công nhận 4 Nhà nước ở
Đông Dương, theo cách phân khu vực trước đó của Pháp,
gồm 2 Nhà nước Việt Nam, Lào và Cam Bốt. Ngành ngoại giao Pháp
vẫn cố bám phần nào vào ý tưởng rằng miền Nam
Việt Nam không theo Cộng sản vẫn có thể tồn tại.
Nhưng tổng thống Pompidou qua đời
vì bệnh vào năm 1974, thay thế là Valéry Giscard d'Estaing, người không quan
tâm nhiều lắm đến chủ đề này ngay từ đầu. Sau đó, theo diễn biến của
cuộc chiến và những chiến thắng liên tiếp của Quân đội Bắc Việt
cũng như lực lượng ở miền Nam Việt Nam, ông ngày
càng theo hướng ủng hộ một lực lượng trung lập và cố đưa ra một lực lượng thứ 3
không Cộng sản cũng không chống Cộng sản.
Tổng thống Valéry Giscard d'Estaing
đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ lực lượng này và cố đưa lên nắm quyền.
Lúc đó là tháng 03/1975, cuộc chiến bước vào giai đoạn cuối,
quân đội Việt Nam bắt đầu tiếp cận Sài Gòn vào tháng
4. Ngành ngoại giao Pháp hoạt động tích cực trong hậu trường để đưa tướng
Dương Văn Minh, còn gọi là "Big Minh", người có lợi thế
là trung lập, theo Phật giáo, không phải là Cộng sản và cũng không chống Cộng.
Nhưng hoạt động ngoại giao này của Pháp lại quá muộn, nhưng trên hết là tương đối
hão huyền, trước sự năng động không thể ngăn cản, không thể lay chuyển của Quân
đội Nhân dân Việt Nam và các đơn vị vũ trang của họ ở
miền Nam Việt Nam và ở thủ đô của miền Nam lúc đó.
Nỗ lực đó đã chấm dứt khi Quân
đội Nhân dân Việt Nam toàn thắng thắng ở Sài Gòn
ngày 30/04/1975. Cho dù ngành ngoại giao Pháp ủng hộ kế hoạch được tiến
hành gần như vào phút chót, đối với tôi, đó là một bước thụt lùi so
với những gì được tướng De Gaulle đề ra năm 1965, tức là 10
năm trước đó.
.
RFI
Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giáo sư Pierre Journoud, Đại học Paul Valéry -
Montpellier III
-------------------------------
CÁC NỘI
DUNG LIÊN QUAN
Chiến
tranh Việt Nam : Mùa đông năm 1972, lần đầu tiên B 52 Mỹ rải bom vào
thủ đô Hà Nội
Truyền
hình Pháp-Đức chiếu phim tài liệu « Vietnam War »
Vì
sao Việt Nam ít đề cập đến Tết Mậu Thân 1968
No comments:
Post a Comment