Ông
Khai Trí và hai câu đối sau năm 1975
Lê Học
Lãnh Vân
23/09/2020
https://vandoanviet.blogspot.com/2020/09/ong-khai-tri-va-hai-cau-oi-sau-nam-1975.html
Bài Người thành muôn năm
cũ có nhắc hai câu ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương thích:
“Nam Kỳ Khởi Nghĩa
tiêu Công Lý
Đồng Khởi thành danh mất Tự Do”
Sau khi bài được đăng
trên Văn Việt và chuyển lên Phây, một số bạn quan tâm tới hai câu trên. Bài viết
xin được thảo luận về đề tài thú vị này.
Hai câu này được lưu truyền
trong dân sau khi hai con đường sang trọng giữa trung tâm Sài Gòn, đường Công
Lý và đường Tự Do, được đổi tên thành đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và đường Đồng Khởi.
Lúc đó không khí xã hội rất
độc đoán, hai câu chỉ có thể được truyền miệng, do đó có nhiều dị bản như:
“Nam Kỳ Khởi Nghĩa
tiêu Công Lý
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do”
hay
“Nam Kỳ Khởi Nghĩa
tiêu Công Lý
Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do”
Ngày nào chưa biết ai là
tác giả hai câu đó, có lẽ khó nói được dị bản nào là nguyên gốc.
Tôi thích cặp câu “Nam
Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý / Đồng Khởi thành danh mất Tự Do”,
THÀNH DANH đối rất chỉnh với KHỞI NGHĨA. Hai cặp chữ đó cùng là từ Hán Việt, từng
chữ trong cặp chữ đối nhau rất đúng phép tắc về từ loại (Thành đối với Khởi,
cùng là động từ, Danh đối với Nghĩa, cùng là danh từ), về ý nghĩa, về thanh (bằng
đối với trắc)… Hai dị bản kia thì đối không chỉnh, thí dụ VÙNG LÊN không thể đối
với KHỞI NGHĨA vì nhiều lý do: Vùng Lên là từ Việt không thể đối với Khởi Nghĩa
là từ Hán Việt, LÊN là trạng từ, không thể đối với NGHĨA là danh từ…
Tôi không biết dị bản nào
là bản gốc. Nhưng thực sự đó là hai câu được nhắc tới trong buổi nói chuyện năm
xưa với ông Khai Trí.
Bản thân tôi cho rằng hai
câu đối “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý / Đồng Khởi thành danh mất Tự Do” rất
thú vị. Về kỹ thuật đối, đó là hai câu đối hay, phải tay sành đối mới làm được.
Nhưng cái thần của hai câu chính là Ý Tứ, nêu một chữ thách TIÊU để hạ một chữ
đối MẤT, vừa tả được sự việc trước mắt, vừa vẽ được bức tranh dự đoán tương
lai.
Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Đồng
Khởi là hai Sự Kiện trong cuộc chiến vừa qua. Cho dù sự kiện lớn và có tầm quan
trọng tới đâu đi nữa đối với cuộc chiến, chúng cũng chỉ là hai sự kiện, sao có
thể bác bỏ hai giá trị bao trùm của nền văn minh nhân loại: Công Lý và Tự Do! Mục
tiêu của Độc Lập dân tộc là Dân Chúng có Hạnh Phúc. Nếu không có Công Lý và Tự
Do, người ta có thể hạnh phúc được không? Xã hội có thể phát triển được không?
Điều này điểm nhãn cho câu đối!
Hai câu xuất hiện lúc mới
đổi tên đường. Nếu mấy chục năm sau, dân chúng có Công Lý và Tự Do, thì hai câu
trên chỉ nói lên mối lo hão. Nhưng nếu dân chúng vẫn chưa có Công Lý và Tự Do,
đất nước ngày càng tụt hậu so với lân bang, thì hai câu trên chính là thần bút
có tác dụng khuyên răn và cảnh tỉnh xã hội. Rằng, một chiến công hiển hách tới
đâu, nếu nó không đem tới cho xã hội những giá trị tiến bộ, văn minh, thì chiến
công có ý nghĩa gì?
Thực ra, hơn hai mươi năm
trước, lúc nhắc tới hai câu đó, chúng tôi không bàn sâu tới vậy. Ý muốn của ông
Khai Trí rất đơn giản: sưu tầm và ghi lại tất cả những câu truyền miệng, thơ
ca, vè… về thời cuộc!
Ông kể hồi đó, tối tối
ông nghe các cô gánh nước nói chuyện rân trời. Thường là những câu cạn xợt, vô
bổ, nhưng chịu khó lắng nghe, sàng lọc sẽ gặp những câu mô tả cuộc đời chân thật
mà sâu sắc. Có đêm về khuya đói bụng, ra đầu hẻm kêu ly chè nghe mấy cô nói
chuyện, ăn rồi vô mùng nằm còn cười vì ngẫm nghĩ thấy thú vị quá! Ông tiếc vì
không ghi lại!
Anh muốn sưu tầm càng nhiều
càng tốt, rồi chú giải để em cháu sau này đọc, hiểu được bây giờ. Vừa là văn
chương cũng vừa là lịch sử. Cứ sưu tầm, đừng nói ghét nói thương!`Ông Khai Trí
của tôi nói như vậy!
Ngày 23 tháng 9 năm 2020
------------------------------------------------------------------------------
.
Lê Học
Lãnh Vân
17/09/2020
https://vandoanviet.blogspot.com/2020/09/nguoi-thanh-muon-nam-cu.html#more
Đường Cao Thắng có một
con hẻm dài số 32. Trong hẻm đó, những năm sau thế chiến II, có một người sinh
quán bên bờ sông Hậu tới lập nghiệp, mua đất của chú Hỏa cất một dãy nhà. Trong
số những người từng ở các căn nhà đó, có ít nhất hai người về sau nổi tiếng:
ông Văn Văn Của, bác sĩ, đô trưởng Sài Gòn giữa thập niên 1960, và ông Nguyễn
Hùng Trương sau này là chủ nhà sách Khai Trí trên đường Lê Lợi giữa trung tâm
Sài Gòn. Thập niên 1960 các ông không còn ở đó nhưng Vương được nghe gia đình kể
lại như những người quen cố cựu.
Nửa sau thập niên 1960, khi học trung học, bữa kia Vương cùng chị Hai
ra nhà sách Khai Trí. Đang ngắm dãy kệ dài thì có tiếng nói sau lưng:
- Chào chị!
Hai chị em quay lại. Người
đàn ông vận tươm tất mà giản dị, áo trắng bỏ trong quần, hỏi:
- Lâu quá không gặp nhau.
Cháu lớn vầy rồi sao?
- Em út tôi đó anh. Đang
học đệ ngũ Petrus Ký!
Năm đó tên gọi lớp đã
chuyển sang số, Vương học lớp tám, nhưng chị Hai còn quen tên gọi cũ. Ông Khai
Trí nhìn Vương:
- Vậy cho tôi tặng em một
quyển sách. Em thích quyển gì đây?
Như phản xạ, mắt thằng nhỏ
liếc quyển từ điển Webster to nhất trên kệ mà nãy giờ nó mê mẩn. Chị Hai vội nói:
- Nãy giờ tụi tui tính
mua quyển này.
Chị chỉ quyển từ điển
khác nhỏ hơn nhiều. Vương hiểu ngay ý chị.
Ông Khai Trí nói: Quyển
đó tui bán chị giá rẻ nghe!
Sau một hồi tiếp tục hàn
huyên, hai chị em ra quầy trả tiền. Trả tiền xong, ông Khai Trí nói:
- Bây giờ, chị cho tôi giữ
lời hứa.
Ông kêu người lấy quyển
Webster lớn nhất ra, chị Hai từ chối. Ông Khai Trí nói:
- Một là tui đã hứa. Hai
là em đang học ngôi trường tui rất thương. Ba là em còn nhỏ, mới lớp tám mà ham
học thích quyển này thì tui phải tặng. Em nào muốn đọc sách học hỏi mở mang,
tui cũng tặng.
Đặt tay lên vai Vương,
ông Khai Trí ấm giọng ân cần:
- Em học giỏi là em tiếp
tụi tui, tiếp chị của em. Thế hệ các em phải mở mang hơn các anh thì nước mình
mới giàu mạnh được!
Lúc đang từ giã nhau, một
người đàn ông thon thả mang kính trắng bước vào. Nhà văn Nhật Tiến. Nhật Tiến
cùng nhà sách Khai Trí hợp tác ra tuần báo Thiếu Nhi. Từ khi còn tiểu học,
Vương lục tủ sách gia đình đã thấy tên ông cùng với các tên tuổi Nguyễn Thị
Vinh, Linh Bảo, Thế Uyên, Đinh Bằng Phi… trên tạp chí Văn Hóa Ngày Nay.
Té ra Nhật Tiến cũng quen
với chị Hai vì cùng ngành giáo chức, hơn nữa chị Hai tốt nghiệp Hán Nôm nên
cũng quen biết nhiều người trong giới viết lách. Ông Khai Trí mời chị Hai nán lại
cùng nói chuyện. Vương không còn nhớ chi tiết, chỉ nhớ các anh chị bàn luận về
tờ báo Thiếu Nhi và các em độc giả của nó. Bây giờ Mỹ vô, văn hóa nó cũng có điều
hay, mà như gió to bão lớn, sợ cuốn hết văn hóa mình đi. Làm sao viết giản dị dễ
hiểu, viết sao các em thích mà lồng được những kiến thức dân tộc truyền thống
và kiến thức văn minh tiến bộ. Cần nhất là các em hiểu và thích, nhà văn Nhật
Tiến và ông Khai Trí rất quan tâm điều đó! Hai ông hỏi chị Hai có thể tham gia
một mục nào đó không, nhưng chị từ chối.
Bắt chiếc taxi vàng xanh
về nhà, chị tôi nói Nhật Tiến chạy trốn Cộng sản mà không thù Cộng sản, chỉ là
sống không hợp với họ mà thôi. Vương hỏi, sao chị không viết cho báo Thiếu Nhi.
Chị viết rồi ai nấu cơm cho nhà ăn? Chị cười gõ nhẹ đầu Vương một cái. Còn trẻ,
Vương vẫn biết các anh chị mình không muốn xuất đầu lộ diện trong thời cuộc những
năm đó, khi đất nước phân đôi với cuộc chiến tương tàn, khi những giá trị tự
do, dân chủ được không ít người cho là đứng bên này chiến tuyến, còn độc lập
dân tộc đứng bên kia…
Sau đó vài năm, chững chạc
hơn, Vương còn có dịp gặp nhà văn Nhật Tiến vài lần nữa cùng với nhà văn Nguyễn
Xuân Hoàng, nhà giáo nhạc sĩ Cao Thanh Tùng và một anh người Bắc di cư bạn thân
của Nhật Tiến, người này làm luận văn cao học Hán Nôm về Tào Thực tại trường Đại
học Văn Khoa, về sau sang Rome thụ phong linh mục và ở lại châu Âu luôn… Các
anh đều là bạn với gia đình và là đàn anh tuổi cách khá xa nên những buổi đó
Vương chỉ lắng nghe và các anh cũng sẵn lòng giải thích!
Sau năm 1975, đa số các
anh chị chọn ở lại Việt Nam. Thời gian đầu các anh, dù ít nhiều lo lắng, vẫn hy
vọng tương lai sáng sủa, người Việt với nhau chắc dù sao cũng đậm đà tình đồng
bào, hết chiến tranh dân mình giàu mạnh mấy hồi! Sau đó thất vọng nhanh chóng
bao trùm. Trí thức mà, người
ta nhìn trước thời cuộc, ngó các chính sách như bắt “ngụy quân, ngụy quyền” đi
học tập, tịch thu sách xuất bản trước năm 1975, đánh tư sản… là biết tương lai
đất nước sẽ trầm luân, lòng nào không thất vọng đớn đau! Các biến chuyển
tiếp theo của đất nước cho thấy anh chị nhìn đúng. Chính trong thời gian đó,
Vương vào lứa tuổi hai mươi còn anh chị có ít việc làm nên hay la cà với nhau.
Đứa em này bắt đầu mở mắt, mở tai học cuộc đời sâu hơn từ các anh chị…
Trong cơn lốc thời cuộc dữ
dội, những người quen bị xô dạt xa nhau tứ tán. Hai chục năm vèo trôi và năm
1997, 1998 gì đó, ngạc nhiên thay, ông Khai Trí tới thăm gia đình Vương. Lúc đó
chị Hai đã mất. Ông biểu Vương cùng đi dạo một vòng, thăm căn nhà ông ở bốn chục
năm trước, thăm nơi đặt cái phông-tên nước mà các cô gánh nước xếp thùng hàng
dài chờ tới phiên. Ông còn nhớ nhiều kỷ niệm xưa, nhớ cái bàn uống la-ve trong
quán Bảy Hổ…
Rồi ông bàn với Vương nhiều
việc.
Đầu tiên ông nhờ Vương tập
họp người sưu tầm văn thơ cũ, nhất là ca dao, tục ngữ trữ tình. Ca dao mình hay
quá, càng đọc càng thấy hay. Anh không viết được nên làm nghề in sách bán sách,
kiếm người viết được, nghiên cứu cái hay, cái sâu sắc rồi viết ra. Mình nên phổ
biến cái hay cho giới học sinh.
Ông cũng chú ý sưu tầm
các bài văn bài thơ mới viết và được truyền tụng, được lưu trữ trong dân sau
năm 1975. Ông Khai Trí khoái những câu như:
“Nam Kỳ Khởi Nghĩa
tiêu Công Lý
Đồng Khởi thành danh mất Tự Do!”
hay:
“Cụ cưới cô, cái cụ có
cô cóc cần, cái cô cần cụ cóc có!” (nói về đám cưới tục huyền của một người
cộng sản nổi tiếng)
Văn chương bình dân như vậy
hay lắm nghe em, như là tấm hình chụp thời đại, thế hệ sau sẽ tìm gặp thế hệ
trước qua văn chương. Anh tin chắc người ta viết nhiều lắm, tại chưa in được,
cái mình biết chỉ là một phần rất rất nhỏ. Em tiếp anh sưu tầm để lại cho đời
sau. Mình tập họp được, chú thích về tác giả, hoàn cảnh… Bây giờ chưa in được
thì sau này in, sẽ là tài liệu vô giá cả về văn học lẫn lịch sử.
Ông cho biết anh chị Nhật
Tiến cũng có ý định thu góp tài liệu để viết về cuộc sống trong nước. Nhà văn
không viết được thì buồn lắm. Mà viết cho bạn bè, bà con, em cháu mình đọc chớ
cho ai!
Buổi nói chuyện đó để lại
Vương những cảm nhận phân vân. Trước mặt Vương là một người lớn tuổi, lụm cụm,
coi có vẻ mệt mỏi và già hơn tuổi sau những cơn bão cuộc đời. Thấy tấm lòng
đáng quý của ông, lại thấy ý định của ông không thực tế trong hoàn cảnh Việt
Nam lúc đó. Muốn giúp ông nhưng biết không giúp được gì. Chưa kể lúc đó Vương
đang rất vướng bận lo cuộc sống gia đình và có hướng phát triển khác…
Ông Khai Trí không làm được
điều ông mong muốn. Vương tới thăm ông hai lần tại căn nhà đường Điện Biên Phủ
(trước năm 1975 là đường Phan Thanh Giản), ngồi với ông trên hai chiếc ghế thấp
nơi cửa nhà ngó ra đường. Vương cũng tự lái xe chở ông thăm Thủ Dầu Một, ông
vui thấy Bình Dương phát triển. Tuy nhiên ý định sưu tầm và phổ biến văn thơ nhạt
dần nơi ông, có lẽ ông chấp nhận hoàn cảnh. Nói chuyện với ông mới thấy tấm
giao tình giữa ông với Nhật Tiến có nhiều nét đẹp của nghề chữ nghĩa. Khi đang
làm việc tại Hồng Kông, Vương được gia đình báo tin ông mất.
Mấy ngày nay, tin buồn về
anh chị Nhật Tiến – Phương Khanh qua đời khiến lòng Vương chùng xuống và càng
nhớ ông Khai Trí. Những con người của một thời, suốt đời cặm cụi với nghề sách,
nghề viết cùng các giá trị đạo đức, văn chương trên từng trang với một sứ mạng
đặt ra rõ ràng cho đời mình.
Những người đó chưa xa,
nhưng đã trở thành “người muôn năm cũ”, biết tìm “ở đâu bây giờ”
trong xã hội hôm nay?
Ngày 17 tháng 9 năm 2020
No comments:
Post a Comment