Cách
mạng tháng Tám và ngày độc lập 2 tháng 9
Trương Nhân Tuấn
02/09/2020
https://baotiengdan.com/2020/09/02/cach-mang-thang-tam-va-ngay-doc-lap-2-thang-9/
Theo sử liệu chính thức thì cuộc “Cách mạng tháng Tám” được khởi động từ
ngày 14-8-1945, sau quyết định của Đảng Cộng sản (CS) Đông Dương tại cuộc họp
Tân Trào và chấm dứt ngày 30 tháng 8 sau khi vua Bảo Đại thoái vị, giao ấn kiếm
cho đại diện CS.
Như vậy cuộc “Cách mạng” được diễn ra trong bối cảnh miền Bắc vừa thoát
khỏi nạn đói kinh hoàng với 2 triệu người chết và Đồng Minh vừa kết thúc cuộc Đại
chiến Thế giới thứ II.
Cuộc cách mạng xảy ra “dưới sự lãnh đạo của đảng, 20 triệu nhân dân ta
đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa dành lại chính quyền…”.
Việc “giành lại chính quyền” được các sử gia Việt Nam ví như là “cuộc
chạy đua nước rút với quân đội Đồng Minh”.
Các bản Hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và sau này là
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), không ngoại lệ, đều ghi nhận sự
thành công của cuộc cách mạng (tháng Tám) là nền tảng khai sinh ra nước VNDCCH.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhưng nếu xét lại thì vấn đề không đơn thuần xảy ra như vậy.
Thế chiến thứ II tại châu Á kết thúc sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng
ngày 15-8-1945.
Theo một số qui định của
phe thắng trận, Nhật phải :
1/ Từ bỏ chủ quyền tại các vùng lãnh thổ đã chiếm đóng trước đó.
2/ Các chính quyền do Nhật dựng lên ở các nơi này thì không được nhìn
nhận.
3/ Trong thời gian chuyển tiếp, quân đội Nhật có trách nhiệm giữ trật tự
trong lúc chờ đợi quân Đồng Minh đến giải giới.
Những vùng lãnh thổ Nhật chiếm đóng này bao gồm Việt Nam.
Quyết định của quân Đồng Minh
Đồng Minh quyết định ra sao về các vùng lãnh thổ này? Trả lại độc lập
hay tiếp tục chiếm đóng?
Một số vùng lãnh thổ bị Nhật chiếm đóng, số phận đã được quyết định qua
các Hội nghị Yalta và Cairo trong lúc chiến tranh như Mãn Châu, Đài Loan… thì
trả cho Trung Hoa, Đại Hàn thì được độc lập. Một số được định đoạt hay tái xác
định sau chiến tranh theo Hòa ước San Francisco 1951.
Riêng Việt Nam và nói
chung là Đông Dương, không thấy nhắc đến vấn đề “trả độc lập” mà chỉ nói đến việc
giải giới quân Nhật. Việc giải giới được lực
lượng Đồng minh qui định: Quân đội Anh Quốc phụ trách vùng phía nam vĩ tuyến 16
và quân đội Trung Hoa phụ trách phía bắc vĩ tuyến 16.
Theo qui định này, ngày 9-9-1945 quân của Trung Hoa do Tiêu Văn và Lư
Hán dẫn đầu có mặt tại Hà Nội. Tương tự, liên quân Anh-Pháp cũng có mặt ở miền
Nam.
Ta thấy không hề
có việc lực lượng cách mạng “chạy đua giành chính quyền” với quân đội Đồng Minh
hay việc “20 triệu nhân dân ta nhất tề vùng dậy giành lại chính quyền” như các
sử gia đã viết.
Theo sử liệu, lực lượng
cách mạng đã đánh Nhật giành chính quyền. Trên thực tế không có “đánh đấm” gì cả.
Cuộc “Cách mạng” xảy
ra sau ngày 15-8, tức lúc quân Nhật đã có lệnh bỏ súng đầu hàng. Thẩm quyền của
Nhật tại Việt Nam ngay từ lúc đó đã chuyển sang lực lượng Đồng Minh. Quân Nhật
không còn nắm chính quyền mà chỉ có trách nhiệm “giữ an ninh trật tự”.
Quân “Cách mạng”
đâu thể cướp hay giành cái mà Nhật đã không còn nữa?
Thực chất ‘cuộc chạy đua giành chính quyền’ là Việt Minh lợi dụng khoảng
trống quyền lực sau khi Nhật đầu hàng để nắm lấy chính quyền, hy vọng đặt Đồng
Minh vào sự đã rồi.
Nhưng điều này thất bại. Bởi vì khi Tiêu Văn và Lư Hán dẫn quân qua
Việt Nam, dọc đường lực lượng này tước quyền hành của ‘chính quyền cách mạng’
và trao cho phe thân Trung Hoa. Vì vậy, cho dầu Việt Minh có thực sự cướp được
chính quyền thì chính quyền này cũng đã bị Đồng Minh lấy lại.
Cũng không hề có
việc ‘lực lượng cách mạng’ cướp chính quyền từ tay Bảo Đại (ngày 30-8-1945).
Quốc gia mang tên Đế Quốc Việt Nam do Bảo Đại lãnh đạo ra đời sau khi
Nhật đảo chánh Pháp ngày 10/3 năm 1945.
Theo qui định của lực lượng Đồng Minh, phía thắng trận, tất cả những
chính quyền do Nhật dựng lên (ở các vùng lãnh thổ chiếm đóng) đều không được
nhìn nhận.
Về mặt pháp lý, Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại không được quốc tế nhìn
nhận mà điều này là cần thiết để một quốc gia ‘hiện hữu’ trên trường quốc tế.
Đế Quốc Việt Nam trên thực tế không có quân đội. Ngân sách là con số
zero. Ngoại giao cũng không. Tất cả đều phải thông qua Nhật. Ông Bảo Đại hay
chính phủ Thủ tướng Trần Trọng Kim không có bất kỳ thẩm quyền nào về lãnh thổ
cũng như đối với người dân của mình.
Đế Quốc Việt Nam rõ ràng là một ‘quốc gia bình phong’.
Thành quả cách mạng và Tuyên ngôn độc lập
Vậy thì ‘lực lượng cách mạng’ có thể cướp cái gì ở quốc gia này? Người
ta đâu thể cướp cái mà người khác không có?
Còn việc “Hai mươi triệu
nhân dân ta nhất tề vùng dậy” cũng chỉ là điều tưởng tượng.
Miền Bắc vừa thoát nạn đói vào tháng 5, với 2 triệu người chết. Ba
tháng sau người dân có thể nổi dậy để giành cái ăn. Nói 20 triệu người ‘nhất tề
vùng dậy’ là điều hoang đường, không thuyết phục được ai hết. Thực chất của
Cách mạng Tháng Tám là vậy.
Còn Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9 của ông Hồ? Về thời điểm, ngày 2/9 được
ông Hồ lựa chọn không hề do tình cờ mà là kết quả tính toán sâu xa.
Ngày 2/9 năm 1945 cũng là ngày đế quốc Nhật ký văn kiện đầu hàng Đồng
Minh trên chiếc Chiến hạm USS Missouri của Mỹ đang neo trong vịnh Tokyo.
Về nội dung, bản Tuyên ngôn của ông Hồ dẫn nhiều ý tứ từ bản Tuyên ngôn
độc lập của Hoa Kỳ.
Từ hai chi tiết này, ta có thể cho rằng ông Hồ đã được sự gợi ý của các
chuyên viên OSS, tiền thân của CIA Mỹ, lúc đó đang hoạt động cùng với Việt Nam
trên vùng biên giới Việt -Trung.
Tuyên ngôn độc lập của ông Hồ, trên phương diện pháp lý cũng như trên
thực tế, không thể hiện được một quốc gia Việt Nam độc lập.
Một số sử gia biện hộ rằng ‘nền độc lập’ của VNDCCH kế thừa từ quốc gia
Đế quốc Việt Nam của Bảo Đại (tuyên bố độc lập ngày 12/3/1945).
Trên công pháp quốc tế, lý lẽ này không thuyết phục. Như đã nói, Quốc
gia Đế Quốc Việt Nam của Bảo Đại vừa không có thực quyền, vừa không được nước
nào nhìn nhận, dĩ nhiên ngoại trừ Nhật. Nền độc lập (tức chủ quyền) của quốc
gia gọi là “Đế quốc VN” do Nhật dựng lên là không hiện hữu.
VNDCCH làm thế nào kế thừa
Đế quốc Việt Nam cái mà thực thể này không có?
Dầu vậy đó là điều may cho Việt Nam. Bởi vì, nếu Đế quốc Việt Nam của
ông Bảo Đại là một quốc gia độc lập có chủ quyền thì Việt Nam sẽ bị Đồng Minh
xếp vào loại quốc gia hợp tác với phát xít Nhật. Lúc đó Việt Nam sẽ bị đối xử
như là quốc gia bại trận. Hệ quả thế nào không ai có thể lường được.
Trường hợp Nhật, quốc gia bại trận, bị đặt dưới sự quản lý của Mỹ cho đến
sau Hòa ước 1951. Dầu vậy, lãnh thổ gọi là quần đảo Nam Tây (Nansei), bao gồm
quần đảo Okinawa, tiếp tục đặt dưới sự quản lý của Mỹ cho đến đầu thập niên 70.
Hiệp ước Sơ bộ 6/3/1946
Nền ‘độc lập’ của nước VNDCCH sẽ rõ rệt hơn, chỉ vài tháng sau, lúc Hiệp
ước Sơ Bộ 6-3-1946 được ký kết.
Điều ước quan trọng của Hiệp ước là Việt Minh và Pháp nhìn nhận VNDCCH
như là một “état libre – tiểu bang tự do” thuộc Khối Đông dương, do ông Hồ lãnh
đạo. Còn việc thống nhất “ba kỳ”, Pháp hứa sẽ nhìn nhận kết quả qua cuộc trưng
cầu dân ý được tổ chức sau này.
Các sử gia VN cho rằng từ “etat libre” ghi trong hiệp ước có nghĩa thực
sự như là “quốc gia tự do”. Chữ “état” nằm trong một liên bang (hay một “union
– khối”) có nghĩa là “tiểu bang” chứ không phải là “quốc gia”. Các “état – tiểu
bang”, như California (thuộc Hợp chúng quốc Mỹ) có quốc hội, ngân sách, chính
quyền… riêng nhưng “chủ quyền” (tức quyền chủ tể) của nó lại thuộc về Liên
Bang.
Từ kết quả hiệp ước sơ bộ ta thấy, nền ‘độc lập’ của VNDCCH mà ông Hồ
tuyên bố ngày 2/9 năm 1945 là không có thực chất.
VNDCCH chỉ là một vùng
lãnh thổ, giới hạn ở Bắc Kỳ, thẩm quyền của ông Hồ thấp hơn Toàn Quyền Pháp. VNDCCH không phải là một ‘quốc gia độc lập’,
có chủ quyền.
Dầu vậy đây cũng là điều may mắn. Cả hai bên ký kết đều xem hiệp ước
này chỉ là thời đoạn, không có ý muốn tôn trọng. Ông Hồ ký kiệp ước vì muốn
Trung Hoa rút đi. Còn Pháp ký hiệp ước vì muốn trở lại miền Bắc.
Giả sử hiệp ước được tôn trọng, chắc chắn Việt Nam sẽ bị chia làm hai
(hoặc ba) quốc gia (và lãnh thổ) khác nhau. VNDCCH sẽ trở thành ‘quốc gia’ do
ông Hồ lãnh đạo.
Miền Nam (Cochinchine) chắc chắn trở thành thuộc địa của Pháp (như
Guyane, Réunion, Nouvelle Calédonie…).
Trong khi miền Trung (An Nam) có thể trở thành một quốc gia khác, do Bảo
Đại hay một hậu duệ nào đó của nhà Nguyễn lãnh đạo.
Đây là một sai lầm lớn lao trong sự nghiệp chính trị của ông Hồ.
Sử gia Trần Trọng Kim phê bình đại khái rằng, sai lầm của ông Hồ chỉ có
thể sửa bằng xương máu. Quả nhiên đúng như vậy. Ông
Hồ sửa sai bằng cách đưa cả nước vào cơn máu lửa.
No comments:
Post a Comment