NỘI DUNG :
Viễn
Đông Daily
.
Vương
Trùng Dương
================================================
.
Viễn Đông Daily
Saturday 11/01/2020
Vừa nhận được tin từ bà Kim Anh con gái nhà văn Nguyễn
Thị Vinh, nhân vật cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn vừa qua đời ngày 8/1/2020 tại
Na Uy, hưởng thọ 97 tuổi, xin thành thật chia buồn cùng bà Kim Anh và gia đình.
Dưới đây là bài phỏng vấn nhà văn Nguyễn Thị Vinh do
Mặc Lâm thực hiện năm 2017, xin chia sẽ cùng các bạn tham khảo.
(Nguồn: MNND)
*
Nhà văn Nguyễn Thị Vinh, Hà Nội 1950
Phỏng
vấn bà Nguyễn Thị Vinh, 1 trong ba thành viên cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn
2006-12-17
Mặc
Lâm, phóng viên đài RFA
Từ năm 1932 đến năm 1945, Tự Lực Văn Đoàn chiếm một
vị trí ưu thế tuyệt đối trên văn đàn Việt Nam và đã ảnh hưởng sâu sắc đến giới
thanh niên và trí thức Việt lúc bấy giờ.
Năm 1933 Tự Lực Văn Đòan chính thức thành lập gồm
có: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo ( Nguyễn
Tường Long), Thạch Lam ( Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn
Thứ Lễ), về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu, và còn một số nhà văn cộng tác chặt
chẽ với văn đoàn này là: Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ…
Bà Nguyễn Thị Vinh là một trong ba thành viên cuối
cùng của Tự Lực Văn Đòan. Bà Nguyễn Thị Vinh sinh năm 1924 tại Hà Nội. Quê nội:
làng Thịnh Đức thượng Hà Đông. Quê ngoại: làng Vân Hoàng, Hà Đông. Đã xuất bản
nhiều tác phẩm tiêu biểu, gồm truyện ngắn, truyện dài, thơ và tùy bút…
Trước năm 1975 bà giữ chức Chủ bút và Chủ nhiệm hai
tạp chí văn nghệ: Tân Phong và Đông Phương. Bà cũng là thành viên của Hội đồng
Giám khảo Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc VNCH. Hiện đang tỵ nạn chính trị tại
Na Uy, Bà tiếp tục hoạt động văn học trong vai trò Chủ nhiệm tạp chí văn nghệ
Hương Xa. Và là thành viên trong nhóm chủ biên nhà xuất bản Anh Em.
Sau đây là phần nói chuyện của chúng tôi với bà:
Mặc
Lâm: Thưa bà, xin bà cho biết cơ duyên nào đưa tới việc
bà gia nhập Tự Lực Văn Đoàn?
Bà
Nguyễn Thị Vinh: Ba thành viên lớp sau (hay đúng hơn, phải gọi là ba
thành viên dự bị) của Tự lực Văn đoàn, gồm nhà văn Duy Lam, nhà văn Tường Hùng
và tôi đều do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lựa chọn, tại Sài Gòn vào khoảng
đầu thập niên 1950.
Ba thành viên lớp sau (hay đúng hơn, phải gọi là ba
thành viên dự bị) của Tự lực Văn đoàn, gồm nhà văn Duy Lam, nhà văn Tường Hùng
và tôi đều do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lựa chọn, tại Sài Gòn vào khoảng
đầu thập niên 1950.
Văn bản với bút tích của nhà văn Nhất Linh hiện do
tác giả Nguyễn Tường Thiết, con trai út của nhà văn Nhất Linh lưu giữ. Trước
đó, trong một bài thơ mang tên Tự Lực, Nhất Linh viết vào lúc 2 giờ sáng Mùng Một
Tết năm Quý Tỵ, nhằm ngày 14 tháng 2 năm 1953, ông đã ghi:
Tự Lực vườn văn mới trội tên Bỗng dưng thời thế đảo
huyên thiên Thương dăm lá cũ vừa rơi xuống Mừng mấy mầm tươi vụt nhú lên Mạch
cũ, nhựa non rồn rập chảy Vườn xưa, hoa mới điểm tô thêm Người qua, sách mọt, đời
thay đổi Tự Lực, danh chung, tiếng vẫn truyền.
Mặc
Lâm: Xin cho biết về tác phẩm đầu tay của bà cũng như
tác phẩm mới đây nhất.
Bà
Nguyễn Thị Vinh: Hai Chị Em, Truyện ngắn, NXB Phượng Giang, Việt Nam
Sài Gòn 1953. Cỏ Bồng Lìa Gốc, Tuỳ bút /Tâm cảm, NXB Anh Em, Hoa Kỳ San José
2005.
Mặc
Lâm: Tự Lực Văn Đoàn đã được lịch sử xác nhận là một tổ
chức có ảnh hưởng rất lớn đối với thanh niên và trí thức trong một khoảng thời
gian dài. Xin bà cho biết chi tiết hơn về vấn đề này.
Bà
Nguyễn Thị Vinh: Tự lực Văn đoàn gây ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài đối
với đa số thanh niên nam, nữ thị dân theo Tây học và Chữ Quốc Ngữ, từ Bắc tới
Nam, về các mặt tư tưởng, văn hóa, xã hội..
a/ Trước hết phải kể tới Tinh thần Tự lực từ cá
nhân, gia đình cho tới xã hội. Không có Tinh thần Tự lực thì quốc gia không thể
giành được nền độc lập toàn vẹn, đúng nghĩa.
Tự lực Văn đoàn gây ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài đối
với đa số thanh niên nam, nữ thị dân theo Tây học và Chữ Quốc Ngữ, từ Bắc tới
Nam, về các mặt tư tưởng, văn hóa, xã hội..
b/ Giữ gìn truyền thống mỹ tục. Đả phá mọi hủ tục.
c/ Nêu cao tinh thần Khoa học Thực nghiệm. Bài trừ
thói mê tín dị đoan.
d/ Chống nạn mù chữ. Phổ biến và nghệ thuật hóa việc
dùng Chữ Quốc Ngữ.
e/ Hướng đến một cuộc cách mạng, tạm gọi là “Cách mạng
Tư sản”, trên nền tảng Chủ nghĩa Tam Dân: “Dân tộc Độc lập, Dân quyền Tự do,
Dân sinh Hạnh Phúc.”
Cho nên từ “ngôi nhà ánh sáng”, tới chiếc “áo dài
LeMur”, “thơ Mới”, “tiểu thuyết luận đề”, “đảng Hưng Việt”, đến báo chí “Phong
Hóa”, “Ngày Nay” và “Văn Hóa Ngày Nay”… Tranh khôi hài “Lý Toét, Xã Xệ”… đã làm
nên tính cách Tự lực Văn đoàn, một văn đoàn vì Quốc gia Dân tộc.
Nguyễn Thị Vinh
(Pearl Nguyen)
Mặc
Lâm: Những thành viên cuối cùng hiện còn sống ngày nay gồm
những ai, có ai trong số họ vẫn còn theo đuổi văn chương nghệ thuật không?
Bà
Nguyễn Thị Vinh: Hai nhà văn Duy Lam và Tường Hùng vẫn sáng tác,
sinh hoạt văn nghệ. Phần tôi, hoạt động văn nghệ không nhân danh Tự lực Văn
đoàn. Vì tự nghĩ: Tự lực Văn đoàn đã làm xong nhiệm vụ lịch sử kể từ sau sự tuẫn
tiết của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.
Tôi biết ơn Tự lực Văn đoàn. Nhưng mọi vấn đề của
nhà văn ngày hôm nay, đầu thế kỷ 21, đã khác với đầu thế kỷ 20. Chỉ còn Tinh thần
Tự lực là mãi mãi nguyên vẹn cho cả nhà văn lẫn người đọc Việt Nam.
Mặc
Lâm: Theo bà thành tựu lớn nhất của Tự Lực Văn Đoàn là
gì? Điều gì còn đọng lại đến ngày nay rõ rệt nhất?
Bà
Nguyễn Thị Vinh: Văn học Nghệ thuật chuyên chở tình Yêu Nước, Thương
Dân, với phương châm: “Muốn Cánh sinh phải Tự lực từ cá nhân, gia đình và xã hội,
đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí.”
Văn học Nghệ thuật chuyên chở tình Yêu Nước, Thương
Dân, với phương châm: “Muốn Cánh sinh phải Tự lực từ cá nhân, gia đình và xã hội,
đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí.”
Quốc thể muốn tự lực, dân trí phải nâng cao. Muốn
dân trí nâng cao phải có Tự do Tư tưởng, Tự do Ngôn luận. Làm giàu và làm đẹp
thêm cho Tiếng Việt.
Mặc
Lâm: Bà nghĩ thế nào khi trong nước cho in lại hầu như
toàn bộ những tác phẩm của Tự Lực Văn Đòan? Có phải đây là một dấu hiệu tích cực
của nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực đổi mới?
Bà
Nguyễn Thị Vinh:
Tôi xin phép được thêm vào hai chữ “cộng sản” trong
cụm từ “nhà nước Việt Nam”, để cho rõ là “nhà nước cộng sản Việt Nam”. Để thấy
rõ ràng, rằng “đổi mới của họ chính là trở về với cái cũ”. Tôi chỉ thấy dấu hiệu
tích cực khi nào họ trở về với Tinh thần Tự lực.
Nâng cao Dân trí bằng cách Tự do Tư tưởng. Thời thực
dân Pháp kiểm duyệt báo chí, văn hóa phẩm rất khắc nghiệt mà nhà xuất bản Đời
Nay, báo Phong Hóa và Ngày Nay của Tự lực Văn đoàn vẫn thuộc quyền tư nhân. Vẫn
được nói xa, nói gần tới Tự do, Dân chủ.
Ở Hoa Kỳ, người dân không có cái lối mừng vì đảng Cộng
Hòa đổi mới, thí dụ thế, mà hễ đảng Cộng Hòa không làm lợi cho dân, cho nước,
hoặc không phù hợp với đa số ý dân, người ta sẽ bàu cho đảng Dân Chủ, như tin
thời sự hiện nay. Trình độ dân trí phải thật sự cao mới làm được điều hết sức
giản dị như thế. Đó là văn minh. Đó là dân quyền. Đó là nhân bản.
Mặc
Lâm: Với kinh nghiệm của một người cầm bút hơn nửa thế kỷ,
bà nhận thấy nền văn học Việt Nam hiện nay cần nhất điều gì để có thể theo kịp
nền văn học thế giới?
Bà
Nguyễn Thị Vinh: Ít nhất chúng ta cũng phải nhìn nhận một số nét căn
bản của nền văn học ở nhiều quốc gia tiến bộ mà chúng ta gọi là “Văn học Thế giới”.
Thí dụ: Không kiểm duyệt. Nhà văn được tự do sáng tác, ấn hành, xuất bản và
phát hành… Văn học có thể tương quan với chính trị, nhưng tuyệt đối không bị bó
buộc phải phục vụ chính trị, giáo điều.
Văn học Việt Nam, trong nước, còn bị kiểm duyệt, kiểm
soát tư tưởng một cách thô bạo. Tự điều này đã là một câu trả lời rồi!
Mặc
Lâm: Bà có nhận định gì về đóng góp của những ngòi viết
hải ngoại? liệu có đủ lực lượng để hình thành một dòng văn học khác song song với
dòng văn học trong nước?
Hiện nay, nhiều bản thảo của một số nhà văn ở trong
nước, không được phép in ở trong nước, hiện đang được xuất bản ở Hải Ngoại,
cũng góp phần quan trọng, làm nên một “dòng văn học khác, song song với dòng
văn học trong nước”.
Bà
Nguyễn Thị Vinh: Theo thiển ý, Việt Nam chỉ có một dòng văn học, dù
nhà văn Việt Nam sống ở trong hay ngoài đất nước. Vấn đề là tác giả nào, tác phẩm
ra làm sao. Thí dụ, bản thảo truyện dài Xóm Cầu Mới của nhà văn Nhất Linh, viết
tại Hồng-kông năm 1949; xuất bản tại Sài Gòn trước năm 1975; mới đây tái bản tại
Hoa Kỳ… Vậy, Xóm Cầu Mới thuộc dòng văn học nào?
Còn những người viết ở Hải ngoại? Chắc chắn đa số đã
viết khác với phần đông những người ở trong nước, bởi nhân sinh quan và bối cảnh
tinh thần cũng như vật chất không giống nhau. Nên, bạn Mặc Lâm cũng có lý, họ
đã hình thành một “dòng văn học khác với trong nước”.
Hiện nay, nhiều bản thảo của một số nhà văn ở trong
nước, không được phép in ở trong nước, hiện đang được xuất bản ở Hải Ngoại,
cũng góp phần quan trọng, làm nên một “dòng văn học khác, song song với dòng
văn học trong nước”.
Mặc
Lâm: Bà đã áp dụng “Tinh thần Tự lực” như thế nào trong
sinh hoạt văn nghệ tại Na Uy, nơi có quá ít người Việt?
Bà
Nguyễn Thị Vinh: Độc giả ít. Ấn phí ở châu Âu, nhất là ở Bắc Âu rất
cao. Cước phí bưu điện cũng nặng nề không thua gì tiền in. Giá tiền gửi một cuốn
sách từ Oslo, Na Uy tới Mỹ, Canada, Úc, Nhật Bản thường cao hơn cả giá in.
Ở đây chỉ sách viết bằng chữ Na Uy mới có thể được cơ
quan văn hóa tài trợ. Việt ngữ thì không. Vậy mà nhà xuất bản Anh Em của chúng
tôi, 20 năm qua, vẫn sinh hoạt khá đều đặn, nếu không nhờ “Tinh thần Tự lực” của
nhiều độc giả, văn nghệ sĩ, quý cơ quan truyền thông và của chúng tôi thì biết
trông cậy vào đâu?
Mặc
Lâm: Xin cám ơn thời giờ quý báu của bà.
Nhà văn Nguyễn Thị Vinh, Oslo 1/6/2019
-------------------------------
Vương Trùng Dương
January 11, 2020
(Hình: Tư liệu của Nhà văn Nhật Tiến gửi NV)
Nhà
văn Nguyễn Thị Vinh, nhân vật cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn vừa qua đời ngày 8
tháng 1 năm 2020 tại Na-Uy. Hưởng thọ 97 tuổi.
Trong bài phỏng vấn của Mặc Lâm, phóng viên đài RFA
ghi nhận:
“Từ năm 1932 đến năm 1945, Tự Lực Văn Đoàn chiếm một
vị trí ưu thế tuyệt đối trên văn đàn Việt Nam và đã ảnh hưởng sâu sắc đến giới
thanh niên và trí thức Việt lúc bấy giờ.
Bà Nguyễn Thị Vinh, 1 trong 3 thành viên cuối cùng của
Tự Lực Văn Đòan. Năm 1933 Tự Lực Văn Đòan chính thức thành lập gồm có: Nhất
Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường
Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ
Lễ) về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu, và còn một số nhà văn cộng tác chặt chẽ với
văn đoàn này là: Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ…
Bà Nguyễn Thị Vinh sinh năm 1924 tại Hà Nội. Quê nội:
làng Thịnh Đức thượng Hà Đông. Quê ngoại: làng Vân Hoàng, Hà Đông. Đã xuất bản
nhiều tác phẩm tiêu biểu, gồm truyện ngắn, truyện dài, thơ và tùy bút…
Trước năm 1975 bà giữ chức Chủ Bút và Chủ Nhiệm 2 tạp
chí văn nghệ: Tân Phong và Đông Phương. Bà cũng là thành viên của Hội Đồng Giám
Khảo Giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc VNCH. Hiện đang tỵ nạn chính trị tại
Na-Uy, bà tiếp tục hoạt động văn học trong vai trò Chủ Nhiệm tạp chí văn nghệ
Hương Xa. Và là thành viên trong nhóm chủ biên nhà xuất bản Anh Em”.
Nguyễn Thị Vinh
(Hình : VietBao)
Trong cuộc phỏng vấn nầy, nhà văn Nguyễn Thị Vinh
cho biết:
“Ba thành viên lớp sau (hay đúng hơn, phải gọi là ba
thành viên dự bị) của Tự Lực Văn Đoàn, gồm nhà văn Duy Lam, nhà văn Tường Hùng
và tôi đều do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lựa chọn, tại Sài Gòn vào khoảng
đầu thập niên 1950.
Văn bản với bút tích của nhà văn Nhất Linh hiện do
tác giả Nguyễn Tường Thiết, con trai út của nhà văn Nhất Linh lưu giữ. Trước
đó, trong một bài thơ mang tên Tự Lực, Nhất Linh viết vào lúc 2 giờ sáng Mùng Một
Tết năm Quý Tỵ, nhằm ngày 14 tháng 2 năm 1953, ông đã ghi:
“Tự Lực vườn văn mới trội tên. Bỗng dưng thời thế đảo
huyên thiên. Thương dăm lá cũ vừa rơi xuống. Mừng mấy mầm tươi vụt nhú lên. Mạch
cũ, nhựa non rồn rập chảy. Vườn xưa, hoa mới điểm tô thêm. Người qua, sách mọt,
đời thay đổi. Tự Lực, danh chung, tiếng vẫn truyền”.
Tác phẩm đầu tay là Hai Chị Em, Truyện ngắn, NXB Phượng
Giang, Việt Nam Sài Gòn 1953. Tác phẩm cuối cùng là Cỏ Bồng Lìa Gốc, Tuỳ
bút/Tâm cảm, NXB Anh Em, Hoa Kỳ San José 2005.
Tự Lực Văn Đoàn gây ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài đối
với đa số thanh niên nam, nữ thị dân theo Tây học và chữ Quốc Ngữ, từ Bắc tới
Nam, về các mặt tư tưởng, văn hóa, xã hội..
a/ Trước hết phải kể tới tinh thần tự lực từ cá
nhân, gia đình cho tới xã hội. Không có tinh thần tự lực thì quốc gia không thể
giành được nền độc lập toàn vẹn, đúng nghĩa.
b/ Giữ gìn truyền thống mỹ tục. Đả phá mọi hủ tục.
c/ Nêu cao tinh thần khoa học thực nghiệm. Bài trừ
thói mê tín dị đoan.
d/ Chống nạn mù chữ. Phổ biến và nghệ thuật hóa việc
dùng chữ Quốc Ngữ.
e/ Hướng đến một cuộc cách mạng, tạm gọi là “Cách mạng
Tư sản”, trên nền tảng Chủ nghĩa Tam Dân: “Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do,
Dân Sinh Hạnh Phúc.”
Cho nên từ “ngôi nhà ánh sáng”, tới chiếc “áo dài
LeMur”, “thơ Mới”, “tiểu thuyết luận đề”, “đảng Hưng Việt”, đến báo chí “Phong
Hóa”, “Ngày Nay” và “Văn Hóa Ngày Nay”… Tranh khôi hài “Lý Toét, Xã Xệ”… đã làm
nên tính cách Tự Lực Văn Đoàn, một văn đoàn vì Quốc Gia Dân Tộc.
Hai nhà văn Duy Lam và Tường Hùng vẫn sáng tác, sinh
hoạt văn nghệ. Phần tôi, hoạt động văn nghệ không nhân danh Tự Lực Văn Đoàn. Vì
tự nghĩ: Tự Lực Văn Đoàn đã làm xong nhiệm vụ lịch sử kể từ sau sự tuẫn tiết của
nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.
Tôi biết ơn Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng mọi vấn đề của
nhà văn ngày hôm nay, đầu thế kỷ 21, đã khác với đầu thế kỷ 20. Chỉ còn tinh thần
tự lực là mãi mãi nguyên vẹn cho cả nhà văn lẫn người đọc Việt Nam.
Văn học Nghệ thuật chuyên chở tình yêu nước, thương
dân, với phương châm: “Muốn cánh sinh phải tự lực từ cá nhân, gia đình và xã hội,
đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí.”
Văn học Nghệ thuật chuyên chở tình Yêu Nước, Thương
Dân, với phương châm: “Muốn Cánh sinh phải Tự lực từ cá nhân, gia đình và xã hội,
đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí.”
Quốc thể muốn tự lực, dân trí phải nâng cao. Muốn
dân trí nâng cao phải có Tự Do Tư Tưởng, Tự Do Ngôn Luận. Làm giàu và làm đẹp
thêm cho Tiếng Việt.
Tôi xin phép được thêm vào hai chữ “cộng sản” trong
cụm từ “nhà nước Việt Nam”, để cho rõ là “nhà nước cộng sản Việt Nam”. Để thấy
rõ ràng, rằng “đổi mới của họ chính là trở về với cái cũ”. Tôi chỉ thấy dấu hiệu
tích cực khi nào họ trở về với tinh thần tự lực.
Nâng cao dân trí bằng cách tự do Tư tưởng. Thời thực
dân Pháp kiểm duyệt báo chí, văn hóa phẩm rất khắc nghiệt mà nhà xuất bản Đời
Nay, báo Phong Hóa và Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn vẫn thuộc quyền tư nhân. Vẫn
được nói xa, nói gần tới Tự do, Dân chủ.
Ở Hoa Kỳ, người dân không có cái lối mừng vì đảng Cộng
Hòa đổi mới, thí dụ thế, mà hễ đảng Cộng Hòa không làm lợi cho dân, cho nước,
hoặc không phù hợp với đa số ý dân, người ta sẽ bàu cho đảng Dân Chủ, như tin
thời sự hiện nay. Trình độ dân trí phải thật sự cao mới làm được điều hết sức
giản dị như thế. Đó là văn minh. Đó là dân quyền. Đó là nhân bản.
Ít nhất chúng ta cũng phải nhìn nhận một số nét căn
bản của nền văn học ở nhiều quốc gia tiến bộ mà chúng ta gọi là “Văn học Thế giới”.
Thí dụ: Không kiểm duyệt. Nhà văn được tự do sáng tác, ấn hành, xuất bản và phát
hành… Văn học có thể tương quan với chính trị, nhưng tuyệt đối không bị bó buộc
phải phục vụ chính trị, giáo điều.
Văn học Việt Nam, trong nước, còn bị kiểm duyệt, kiểm
soát tư tưởng một cách thô bạo. Tự điều này đã là một câu trả lời rồi!…”
(ngưng trích)
*
Nguyễn Thị Vinh sinh ngày 15 tháng 7 năm 1924 tại 41
Phố Bờ Hồ Hà Nội; gốc quê nội của bà tại làng Thịnh Đức Thượng, tức làng Giẽ,
phủ Thường Tín, huyện Phú Xuyên, thôn Thịnh Đức Hạ, tỉnh Hà Đông; gốc quê ngoại
tại làng Vân Hoàng, tức làng Chản, cùng tỉnh với quê nội. Hai ông bà thân sinh
mất sớm, năm Nguyễn Thị Vinh lên tám. Bốn anh chị em bà, mà người anh cả mới mười
lăm tuổi, đang từ con cái một gia đình khá giả, bỗng chốc trở nên mồ côi cha mẹ,
nghèo khổ. Tuy gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn theo đuổi học hành. Khởi là
thơ, viết văn từ những năm 1939-1940 tại Hà Nội.
Bà lập gia đình với ông Trương Bào Sơn (thành viên nồng
cốt VN Quốc Dân Đảng, là một dịch giả có tiếng). Năm 1948, bà cùng con gái 3 tuổi,
(Trương Thị Kim Anh) từ Hà Nội sang Hồng Kông tị nạn chính trị với chồng Trương
Bảo Sơn.
Tòa soạn Văn Hóa Ngày Nay 1958 (Hình : Internet)
Truyện dài Thương Yêu được viết tại Cửu Long, đảo
Trường Châu, Hương Cảng năm 1948. Năm 1952, trở về Sài Gòn, chép lại 2 bản thảo
Thương Yêu, Hai Chị Em và sửa chữa lần chót, chuẩn bị để ấn hành. Nhà văn Nhất
Linh Nguyễn Tường Tam, khi cùng tị nạn chính trị tại Hương Cảng năm 1948-1951,
với một số người bạn chiến đấu của ông, có dịp đọc bản thảo Thương Yêu, Hai Chị
Em khuyến khích là nên xuất bản. Vì thế, năm 1953, ấn hành tác phẩm Hai Chị Em,
tác phẩm Thương Yêu viết trước nhưng ấn hành năm 1954. Tác phẩm Xóm Nghèo
(1958), Men Chiều (1960)…Thơ Nguyễn Thị Vinh (1972), tập thơ Cõi Tạm ấn hành
năm năm 2001 (Nhà thơ Ngọc Hoài Phương ấn hành tập thơ Cõi Tạm năm 1992).
Năm 1960 ông Trương Bảo Sơn cùng với Nguyễn Tường
Tam tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Đoàn Kết. Tham gia ngày 11-11-1960, bị bắt tù 3
năm và bị Tòa Án Quân Sự kết án 5 năm lưu đày ra Côn Đảo năm 1963. Được trả tự
do sau 1-11-63.
Năm 1964 ông đứng ra thành lập và làm Tổng Thư Ký Quốc
Dân Đảng biệt bộ Nguyễn Tường Tam, làm Tổng Thư Ký hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Dân
Quyền Việt Nam, tổ chức phong trào chống Hiến chương Vũng Tàu. Ông là người dấn
thân và hăng say trong cuộc đời làm cách mạng. Năm 1978 ông Trương Bào Sơn vượt
biển tới Pulau Bidong (Mã Lai) và định cư tại Canada năm 1979.
Năm 1970 nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật mở nhà xuất bản Anh
Em và ấn bản đầu tiên là tập truyện Cô Mai của Nguyễn Thị được tái bản, tiếp
theo sau là Quán Đời của chính anh. Và sự gặp gỡ nầy tuy tuổi tác chênh nhau gần
hai thập niên nhưng trở thành bạn đời.
Năm 1984, Nguyễn Thị Vinh và Nguyễn Hữu Nhật tị nạn
chính trị tại Na Uy do cô con gái Kim Anh bảo lãnh. Chồng cô Kim Anh là nhà
thơ Dương Kiền, cũng là bạn văn với Nguyễn Hữu Nhật. Theo anh Nguyễn Hữu Nhật,
đây là định mệnh, nhưng khi đến nơi, anh đã nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt
vời của xứ Bắc Âu, anh cho là số mệnh anh phải là chứng nhân của phong cảnh và
tình người và có bổn phận ở lại ghi chép, truyền đạt cho người đi sau. Chị Nguyễn
Thị Vinh cảm nhận được sự bao dung của tuyết, của sự cưu mang từ một dân tộc rất
xa lạ với mình. Dĩ nhiên mỗi người có một phần việc được giao phó trong đời sống.
(Hình: Tư liệu của Nhà văn Nhật Tiến gửi NV)
Anh chị sống trong một căn nhà nhỏ giữa trời tuyết
bao la chỉ có 52 mét vuông với 2 phòng ngủ, anh Nhật đã dùng 1 phòng làm nơi “Sản
Xuất”, còn chị thì chiếm lấy 1 góc nhỏ ở căn bếp, có thể viết, có thể ăn, có thể
làm tất cả những gì cảm thấy thích thú và cần thiết. Và, nơi nầy cũng là nơi trở
thành “cơ sở văn nghệ” cho hai cây bút cùng bạn văn như tạp chí văn nghệ Hương
Xưa. Trong tác phẩm Na Uy & Tôi (1994), Nguyễn Thị Vinh ghi lại cảm nhận của
bản thân nơi xứ người.
Theo lời bà “Tôi là người tỵ nạn chính trị. Vấn đề
chính trị ở nơi tôi ra đi vẫn chưa thay đổi. Nên tôi chưa thể về lại được, dù
là về thăm nhà”. Về tác phẩm, bà cho biết: “Các tác phẩm viết trước năm 1975 của
tôi, không nằm trong danh sách cấm in, nhưng tôi tự thấy tôi không thể hợp tác
được với các nhà xuất bản quốc doanh của đảng CS. Hợp tác một phần cũng là thoả
hiệp chính trị. Các tác phẩm sau năm 1975, của tôi, hầu hết có nội dung chống độc
tôn, độc trị, độc tài, độc đảng”.
*
Nhà văn Nguyễn Ðình Toàn nhận định về về Nguyễn Thị
Vinh:
“Nguyễn Thị Vinh có một văn phong nhẹ nhàng nhưng đằm
thắm. Hai chữ “thương yêu” bà lấy làm tựa cho một cuốn sách của bà, cũng là cái
tình người đọc có thể nhận thấy dàn trải trong từng mỗi câu văn, trong toàn bộ
tác phẩm của Nguyễn Thị Vinh.
Dù, càng về sau này, nghĩa là sau 1954 là một giai
đoạn, sau 1975 lại là một giai đoạn khác nữa, cách viết của bà có ít nhiều thay
đổi, bà có dùng đến luận lý, phê bình, triết lý, chính trị, đôi khi cả chỉ
trích, khôi hài nữa, nhưng cái dịu dàng, tinh vi, ngọt ngào đầy nữ tính vẫn là
nét chính, cái hồn của văn chương Nguyễn Thị Vinh…
(Hình: VietBao)
Trong cuốn Cỏ Bồng Lìa Gốc, Nguyễn Thị Vinh viết về
nhiều thứ: Thân phận người “đàn bà nước Nam”, thư gửi cho hai nhân vật tiểu
thuyết của Khái Hưng và Nhất Linh [Mai/Nửa Chừng Xuân & Loan/Ðôi Bạn], thư
gửi cho một người có thật ở ngoài đời Shirin Ebadi, Giải Hòa Bình Nobel 2003,
bàn về nỗi “Vì Sao Dân Mình Khổ Mãi”, rồi lòng tư hương của một người Việt rời
xa xứ sở (1975) muốn về nhìn lại đất nước nhưng lại tự thấy chưa thể làm cái việc
ấy được vì: “khi phải ‘xin phép’ai có nghĩa là tôi chấp nhận người ấy có quyền,
ít nhất đối với tôi. Nếu đất nước ta có một chính quyền thật sự do dân bầu, vì
dân, đàng hoàng, tất nhiên như mọi người dân khác, tôi cũng phải tôn trọng luật
pháp cùng các thủ tục hành chính của nó. Chỉ khó… (vì) tại tôi, tôi không ưa
cái thứ chính quyền hiện có ở quê nhà”.
Ðoản văn thú vị nhất có lẽ là đoạn Nguyễn Thị Vinh kể
lại những kỷ niệm của bà với một số các nhân vật trong Tự Lực Văn Ðoàn, nhất là
với nhà văn Nhất Linh, ở Hương Cảng, khi ấy ông đang viết bộ trường thiên Xóm Cầu
Mới”.
Nguyễn Thị Vinh cho biết: “Các nhà phê bình văn học
viết về nội dung, bố cục và bút pháp của ‘Xóm Cầu Mới’. Còn riêng tôi, lại nhớ
những tháng được nhìn thấy nét “chữ con kiến bò” của anh Tam. Nhỏ nhưng không tới
nỗi quá khó đọc, chạy trên mấy trăm trang giấy bản thảo. Bản thảo đầu tiên của
Xóm Cầu Mới, anh Tam đã thai nghén từ năm 1940 ở Hà Nội đã mất hết trong chiến
tranh, và tới năm 1948 mới được anh viết lại ở Hương Cảng”.
(ngưng trích)
Kể từ khi
thai nghén truyện dài Thương Yêu ở Hương Cảng năm 1948 đến khi vĩnh biệt
“Cõi Tạm” năm 2020 ở Na-Uy đánh dấu bảy thập niên cầm bút của nhà văn nữ. Bà là nhà văn nữ thọ nhất trong Tự Lực Văn Đoàn nói riêng và văn đàn Việt
Nam nói chung đã đóng góp ngòi bút của mình từ trong nước đến hải ngoại.
Little Saigon, Jan 10, 2020
Vương
Trùng Dương
------------------------------
No comments:
Post a Comment