Nguyễn
Xuân Xanh
- Tháng
11, 2016
Thích nghi hay tiêu vong, mãi mãi là mệnh lệnh nghiệt
ngã của tự nhiên.
H.G. Wells
Một lược sử thế giới, 1922
*
Thứ
nhất.
Mục đích giáo dục.
Để
mở đầu, xin được trích dẫn những lời sắc bén của Vị bộ trưởng giáo dục đầu tiên Mori Arinori của Nhật Bản
Minh Trị như một Tuyên ngôn cho ngành giáo dục của đất nước
Phù Tang trước thềm cuộc Duy Tân vĩ đại 1868 như sau:
“Chiến tranh (sensō) không phải chỉ là đánh nhau
bằng súng đạn và giết nhau, mà tất cả mọi người Nhật phải được tham gia ngay từ
bây giờ vào cuộc chiến tranh của kỹ năng, kỹ năng của cuộc sống, của công nghiệp,
thương mại, tri thức. Và đào tạo thầy giáo phải dựa trên sự chuẩn bị cho cuộc
chiến này. Thua cuộc chiến này là sẽ thua cuộc chiến bằng súng đạn. Đất nước
chúng ta phải chuyển dịch từ vị trí hạng ba lên vị trí hạng hai, rồi hạng hai
lên hạng nhất; và sau cùng lên đến vị trí hàng đầu trong cộng đồng các quốc gia
thế giới. Con đường tốt nhất để thực hiện điều này là đặt nền móng cho giáo dục
cơ bản”.
Hai phần ba thế kỷ trước đó, Vua Phổ sau khi thất trận
trước Napoleon đã hạ quyết tâm: “Chúng ta phải lấy sức mạnh trí tuệ để bù đắp
những tổn thất về vật chất.” ĐH Berlin ra đời, sau này là ĐH Humboldt - bà mẹ của các đại học nghiên cứu hiện đại thế giới hôm
nay. Park Chung Hee, ngày đầu tiên lên nắm quyền năm 1961, đã tuyên bố dứt
khoát: “Hàn Quốc phải tiến hành ngay công nghiệp hoá!” Lý Quang Diệu,
ngay từ những năm lập quốc, đã khẳng định Singapore phải tiến “từ thế giới
thứ ba lên thế giới thứ nhất”. Những định hướng đó của các nhà lãnh đạo vĩ
đại đã quyết định lên nội dung của nền giáo dục, không phải
giáo dục chung chung tạo ra con người chung chung không phương hướng, mà là một
nền giáo dục để thực hiện cuộc đi lên công nghiệp hoá bứt phá của dân tộc. Các
lãnh đạo lớn, cũng như các nhà đổi mới sáng tạo lớn, đều có một điểm
chung: tầm nhìn, vision, và “nghĩ khác” (Think different), như tiêu
đề quảng cáo nổi tiếng của Apple.
Thứ
hai.
Cách mạng công nghiệp thế giới.
Nhìn từ Tây sang Đông: Cuộc cách mạng công nghiệp,
khởi đầu từ Anh Quốc, rồi lan sang Pháp, Đức, Mỹ các thế kỷ 18, 19; đến Nhật Bản
ở phương Đông thế kỷ 19. Tiếp theo, những thập niên cuối thế kỷ 20, bốn con rồng
nhỏ ở châu Á xuất hiện: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore. Và cuối thế
kỷ 20, đầu thế kỷ 21, Trung quốc vươn lên theo con đường công nghiệp hoá của thế
giới. Tất cả các quốc gia này đều tiến hành công nghiệp hoá. Công
nghiệp hoá, hay cách mạng công nghiệp là mệnh lệnh sống còn của
các dân tộc bị tụt hậu. Vì chỉ bằng con đường đó, dân tộc mới lột xác và đổi đời.
Nước Đức đã tiến hành cải cách giáo dục và công nghiệp
hoá ngay sau khi thua trận trước Napoleon năm 1806, vì quá lạc hậu. Năm 1870, Đức
thắng lại Pháp để “trả mối thù xưa”, vì công nghiệp hoá của Đức khi đó đã bứt phá
mạnh mẽ, vượt Anh lẫn Pháp nhiều mặt, có nền giáo dục trung tiểu học, đại học đều
tiên tiến nhất theo mô hình cải cách của Wilhelm von Humboldt.
Ở châu Á, Nhật Bản đã đánh thắng đội quân hùng mạnh
của nhà Thanh chỉ sau 26 năm tiến hành công nghiệp hoá. Mười năm sau, họ tiến
lên đánh bại đại quân Nga hoàng, chiếm trọn ngôi bá chủ ở Viễn đông. Do không cải
cách, các vương triều Trung Hoa, và của Nga hoàng lần lượt sụp đổ.
Các thí dụ lịch sử vừa nêu đã cho thấy: Các quốc gia
tiến hành công nghiệp hoá đều có quốc phòng hùng mạnh - và đất nước phồn vinh. Đó là những kịch bản đã diễn
ra xung quanh cột mốc công nghiệp hoá. Hoặc tiến lên, hoặc có nguy cơ bị đào thải.
Chúng
ta đang ở đâu? Đang ở vào thời kỳ bùng nổ của cuộc cách mạng
công nghiệp thứ tư. Các công nghệ được gọi là exponential, tức có sức
phát triển nhanh như hàm mũ, đang và sẽ định dạng thế giới trong tương lai, đồng
thời có sức hủy hoại (disruptive) rất lớn đối với tất cả những cái cũ.
Người khổng lồ KODAK sau 100 năm chiếm thế thượng phong trên thị trường đã phải
nhận kết cục phá sản năm 2012 trước các công nghệ mới. Các lực bứt phá sẽ đẩy
các công ty (tăng trưởng) tuyến tính ra khỏi thị trường. Trong khi đó, nhiều
công ty khởi nghiệp trong ga-ra xe ở Thung lũng Silicon phát triển nhanh chóng
lên thành những công ty trị giá hàng tỷ đô la. Công ty dịch vụ cho thuê phòng
trực tuyến Airbnb, sau sáu năm khởi nghiệp, đã có giá trị trên thị trường chứng
khoán $10 tỷ, cao hơn giá trị của Hyatt Hotels Corporation ($8.4 tỷ), mà không
phải xây một viên gạch nào! Công ty taxi Uber, sau bốn năm hoạt động, có trị
giá lên đến $18 tỷ mà không phải đầu tư một chiếc xe hơi nào. Họ đã sử dụng các
công nghệ có tính tăng theo hàm mũ. Cty Cisco ước tính rằng giữa 2013 và 2020,
mạng lưới Uber sẽ sinh ra $19 ngàn tỷ đô về giá trị (lợi ròng), lớn hơn GDP của
kinh tế Mỹ!
Nếu đem so sánh danh sách Forbes 100 của hai thời kỳ,
1917 và 1987, khoảng cách thời gian 70 năm, người ta sẽ thấy rằng có đến 61 đại
gia trong nhóm thứ nhất đã biến mất. Từ 500 công ty trong S&P 500 (Standard
& Poor's 500) của năm 1957, thì chỉ còn 74 công ty tồn tại trong danh sách
năm 1997. Đó là sự “phá hủy sáng tạo”. Các gã khổng lồ hôm nay sống trong sự
căng thẳng và lo âu, vì không biết lúc nào mình có thể bị loại khỏi thị trường.
Không có đế chế nào miễn nhiễm trước cơn sóng “phá hủy sáng tạo” đang dâng lên
từ các loại công nghệ hàm mũ. Đổi mới sáng tạo diễn ra bất ngờ, như sự đột biến
gen, khó lường trước, nó xuất hiện thình lình như một thiên thạch, và các chú
khủng long nào ở gần đó có thể bị tiêu diệt. Họ phải liên tục tự đổi mới sáng tạo
từ bên trong, cũng như phải mua ngay các công ty khởi nghiệp mới để bổ sung
thêm tri thức, tránh bị đào thải.
Đơn cử một số công nghệ tương lai này: ngành robot,
trí tuệ nhân tạo (AI), in 3D, công nghệ nano, và công nghệ sinh học. Các nhà
khoa học giải Nobel Hoá học năm 2016 đã chế tạo được những “chiếc xe Mercedes” - cỗ máy phân tử sinh học - mở ra nhiều triển vọng ứng dụng khôn lường, trong
đó có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư, khả năng sử dụng nó như transistor cho
một máy tính đời mới có bộ nhớ vĩ đại và năng lực xử lý 100 tỷ lần cao hơn máy
tính ngày nay!
Hiện nay, 10 công ty công nghệ lớn nhất ở Thung lũng
Silicon, từ Apple, Hewlett-Packard, Google, Intel, Cisco Systems, Oracle …đến
Facebook, chiếm một doanh số gần $600 tỷ đô la Mỹ! Một vùng đất rộng 4.000 km2,
và 2.5 triệu cư dân đã làm ra một doanh thu khủng. So với TP HCM: 2.000 km2, và
10 triệu người, và GDP $44 tỷ đô-la Mỹ. Trong khi đó, Samsung Việt Nam xuất khẩu
những năm qua lên tới 20 tỉ đô-la một năm, hoặc hơn, so sánh với doanh thu của
cả ba ngành nông nghiệp, thủy sản và gia công may mặc của Việt Nam gộp lại chưa
đầy 20 tỷ! Rõ ràng, công nghệ chính là yếu tố quyết định giá trị của sản phẩm
và là sức đẩy phản lực của nền kinh tế hiện đại.
Nói thêm một chút về sự phát triển theo hàm mũ bằng
công nghệ mới. YouTube được thành lập năm 2005 bởi ba người sáng lập. Chưa đầy
hai năm sau, công ty này được Google mua lại với giá $1,65 tỷ. Lúc chuyển nhượng,
YouTube chỉ có 65 nhân viên, đa số là kỹ sư có kỹ năng cao. Điều đó có nghĩa rằng
giá trị bình quân trên một đầu người của công ty là $25 triệu. Tháng 4, 2012,
Facebook mua lại Instagram, công ty khởi nghiệp với ứng dụng chia sẻ hình ảnh
và video miễn phí mới thành lập 15 tháng với giá $1 tỷ. Instagram có 13 nhân
viên, tức giá trị bình quân trên một đầu người khoảng $77 triệu. Hai năm tiếp
theo, Facebook mua tiếp WhatsApp, công ty phát triển ứng dụng nhắn tin di động
đa nền tảng với giá $19 tỷ. Với 55 nhân viên, giá trị bình quân của công ty là
$345 triệu một đầu người, một con số đáng kinh ngạc.
Hãy
cảnh giác! Trong vài thập niên tới, lao động Việt Nam,
cũng như lao động của các quốc gia đang phát triển khác, hay của cả các quốc
gia công nghiệp, trong cuộc cạnh tranh về giá cả và chất lượng, sẽ phải đối mặt
với các đội quân rôbôt ngày càng hùng mạnh và đông đảo ở các quốc gia công nghiệp!
Xu hướng tự động hoá, rôbôt hoá trên thế giới là không cưỡng được. Công ty dệt
Parkdale Mills ở Gaffney, Nam Cali, chỉ sử dụng 140 công nhân cho một năng lực
sản xuất mà năm 1980, nghĩa là 33 năm trước, phải cần đến 2.000 lao động. Hiện
nay, một số công ty Mỹ đã bắt đầu chuyển hướng sản xuất về Mỹ, như Dow
Chemicals, Caterpillar, GE, Ford; Google tuyên bố cũng rút sản xuất Nexus Q
streaming media player về Mỹ, điều gây áp lực lên Apple. Tương tự, chiếc xe
tiên tiến nhất Tesla Model S, được sản xuất tại Thung lũng Silicon, một trong
những vùng đắt đỏ nhất ở Mỹ. McDonald cũng đang trên đường robot hoá. Trong
tương lai không xa, sản xuất của Mỹ có thể không còn nằm ở Trung Quốc nữa, mà sẽ
quay về Mỹ. Ngay tại TQ, tập đoàn Đài Loan Foxcom Technology, một trong những
nhà sản xuất lớn nhất thế giới, mới tuyên bố kế hoạch lắp đặt một triệu rôbôt
trong vòng ba năm tới để làm những công việc mà lao động TQ hiện đang làm!
Thứ
ba.
Mục đích của Đại học.
Vai trò của tri thức và đại học được vị cựu chủ tịch
xuất sắc nhất của Đại học Califorina, Clark Kerr, diễn tả như sau:
“Trong mắt của công chúng, các diễn viên trên vũ đài thế giới có thể là
các vận động viên và các chính trị gia, tướng lãnh và nhà ngoại giao, nhưng
không ai có thể dám làm ngơ các lớp học, các phòng thí nghiệm và thư viện, những
thứ vốn ở hậu trường, nhưng ở đó lịch sử thật sự được làm ra.” […]
Tạo ra tri thức mới, đào tạo những người đàn ông và phụ nữ có thể sử dụng
tri thức mới… Đó là những nhiệm vụ của Đại học California trong một thời đại
khi mà giá trị của tri thức là hiển nhiên hơn bao giờ hết so với trước đây - một thời đại của sự triển khai
trí tuệ thần thoại nhất trong lịch sử nhân loại. Đó có thể là một Thời đại vàng
đích thực trong đời sống của Đại học California, và có thể trở thành một Thời đại
vàng của nhân loại.”
Nhà vật lý hạt Mỹ giải Nobel Steven Weinberg từng
minh hoạ tầm quan trọng to lớn của Đại học nghiên cứu đối với sự phồn vinh của
xã hội bằng những lời quyết liệt như sau: “Tôi
tin rằng không có các đại học nghiên cứu lớn, chúng ta ở Hoa Kỳ sẽ phải tự nuôi
sống bằng cách trồng đậu nành, và giới thiệu Grand Canyon cho du khách từ Đức
và Nhật Bản.”
Đại học Stanford, nhìn từ trên cao (ảnh: website của Đại học)
Dòng chảy của tri thức khoa học cơ bản về thế giới tự
nhiên thu hoạch được từ thời Khai sáng đã thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp
và những đổi mới sáng tạo kỹ thuật, gây ra sự biến đổi kinh tế lớn lao đầu tiên
ở phương Tây (Joel Mokyr). Vai trò của đại học thể hiện đặc trưng nhất qua mối
quan hệ giữa Đại học Stanford với Thung lũng Silicon, Đại học Harvard và MIT với
Tuyến đường 128, Boston. Cụ thể, các cựu sinh viên MIT đã khởi nghiệp hơn 5.000
Cty, trong đó có Intel, Bose, Texas Instruments, và sử dụng hơn một triệu nhân
viên, làm ra doanh thu hơn $230 tỷ/năm, cho thấy sức mạnh to lớn của đại học.
Jaron Lanier, một chuyên gia Mỹ đẳng cấp về công nghệ thông tin, cho rằng 1.000
“quái kiệt” công nghệ thông tin nếu hợp lại có thể thay đổi cả nền kinh tế thế
giới. Việt Nam chắc chỉ cần vài chục.
Đó
là lý do chúng ta cần nâng cấp đại học một cách quyết liệt để
nâng cao đóng góp của đại học vào sự phồn vinh của xã hội và quốc phòng. Các đại
học phải là trung tâm cung cấp tri thức cho nền kinh tế. Không có đại học
nghiên cứu, không thể phát triển công nghiệp hoá và khởi nghiệp chất lượng cao.
Cần phải gấp rút làm như thế, cần được tư vấn dài hạn, và có chương trình hợp
tác với Stanford, Hardvard và MIT có trọng tâm để từng bước tạo nên những đại học
đẳng cấp thế giới. Một đảo quốc nhỏ như Singapore cũng đã giành được sự hợp tác
của ít nhất mười đại học đẳng cấp thế giới, trong đó có Đại học Graduate School
of Business của Chicago, MIT, Đại học y khoa Duke và Đại học Yale. TQ đã và
đang làm việc này quyết liệt, thuê chuyên gia Mỹ thiết kế China Ivy League để cạnh
tranh với Ivy League Mỹ. Họ mua tri thức một cách ồ ạt chưa từng có, y như Nhật
Bản từng làm trước đây.
Thứ
tư.
Môi trường thông minh.
Muốn phát triển khoa học, công nghệ, cần tạo ra môi
trường văn hoá thông minh, truyền cảm hứng và kích thích óc tò mò,
sáng tạo, kèm theo một cơ chế đãi ngộ xứng đáng dựa trên năng lực. Không phải ngẫu nhiên mà các
phát minh quan trọng nhất về khoa học, công nghệ lại diễn ra ở những quốc gia
có nền văn hoá phát triển. Đây là vấn đề văn hoá. Văn hoá
này bao gồm nhiều thứ, nhưng tối thiểu không thể thiếu cơ sở hạ tầng văn hoá và
tri thức, như các viện bảo tàng khoa học, công nghệ, đài quan sát thiên văn, bảo
tàng nghệ thuật thế giới, đại thính phòng giao hưởng, cơ sở hạ tầng tri thức, mạng
lưới thư viện, đại thư viện, sách vở báo chí khoa học. Môi trường thông minh sẽ
có hệ quả là làm tăng chỉ số thông minh trung bình IQ của con người trong đó
(Hiệu ứng Flynn).
Hiện VN chưa có một tạp chí khoa học đại chúng kiểu
như Nature, Science hay Scientific
American, cũng như các tạp chí chuyên ngành, để giúp đại chúng hoá và kích
thích nghiên cứu khoa học. Sách, sách hay, sách thông minh, sách để hiểu thế giới
và xây dựng đất nước, là nguồn tri thức vô tận của nhân loại không một xã hội
phát triển nào có thể thiếu. Đọc sách không phải chỉ để thưởng ngoạn, mà quan
trọng hơn là việc làm của lòng yêu nước để phát triển đất nước và hoàn thiện
con người. Đọc sách là thuộc tính của một dân tộc văn hoá có ý thức. Những món
hàng nhập khẩu đầu tiên từ phương Tây của Nhật Bản thời Minh Trị là sách. Người
Nhật muốn hiểu biết thế giới phương Tây để chấn hưng đất nước họ. Cần có nhiều
mảng du lịch xanh để thư giản lành mạnh. Cần phải có thêm tên đường hay trường
học đặt theo tên những nhà khoa học vĩ đại của lịch sử, như Newton, Galilei,
Einstein,… và tên những nghệ sĩ vĩ đại như Mozart, Beethoven, Bach v.v... Nhưng
điều quan trọng hơn tất cả là phải có chính sách đãi ngộ tốt đối với các nhà
khoa học.
Thành phố Fiorenza (Florence) thời Medici (ảnh Internet)
Cần qui tụ và kết nối các tài năng Việt, và khách mời
nước ngoài để tạo ra thời kỳ Phục Hưng trí tuệ cho Việt Nam, như dòng họ Medici
của Florence từng qui tụ tài năng để tạo ra Phục Hưng cho châu Âu, được gọi
là Hiệu ứng Medici. Cụ thể Thành phố cần có một sân chơi như
diễn đàn TED cho Công nghệ, Giải trí, Thiết kế (Technology, Entertainment,
Design) của TP New York, nơi mà tất cả tài năng, nổi tiếng cũng như chưa nổi tiếng,
các nhà khoa học giải Nobel hay các tỷ phú công nghệ, thường lui tới để trình
bày ý tưởng của họ. Bill Gates cho rằng “IQ tập thể của những người tham dự là
lớn khủng khiếp”.
Thứ
năm. Tương
lai nào cho chúng ta?
Trong thế kỷ 20, sự khác biệt vượt trội giữa các hệ
thống chính trị là giữa tả và hữu. Nhưng trong thế kỷ 21, ranh giới cơ bản giữa các mô hình chính
trị và kinh tế là giữa mở hay đóng. Đổi mới sáng tạo chắc chắn sẽ diễn
ra ít hơn tại các môi trường ít cởi mở hơn. Tri thức của thời đại sẽ chảy vào
những vùng như Thung lũng Silicon, vì tài năng thế giới cảm nhận được IQ hỗn hợp
và những cơ hội phát triển thông thoáng, một văn hoá của sáng tạo, khoan dung,
và một phong cách sống thú vị. Những xã hội có ít lực cản nhất đối với các
doanh nhân là những xã hội sẽ có mức sống cao nhất.
Thế giới của con cháu chúng ta sẽ rất khác với thế
giới của chúng ta hôm nay. Nhiều ngành nghề cũng rất khác, chưa có mặt hôm nay.
Đất đai là nguyên liệu của thời đại nông nghiệp. Sắt thép là nguyên liệu của thời
đại công nghiệp. Data (Dữ liệu) là nguyên liệu của thời đại thông tin. Thông
tin bao gồm tri thức. Kinh tế 2.0 của sự giàu có hôm nay đặc trưng bằng đổi mới,
sáng tạo, công nghệ tiến bộ, chứ không chỉ bằng đất đai, lao động và vốn liếng,
như kinh tế 1.0 của sự khan hiếm của quá khứ. Con cháu chúng ta vì thế phải được
cung cấp đầy đủ những kỹ năng phù hợp, như óc tò mò, sáng tạo,
khai phá, óc liên tưởng, óc tưởng tượng, quan sát, đặt câu hỏi, kết nối, tư duy
liên ngành, thử nghiệm, dũng cảm chấp nhận, thậm chí yêu cả rủi ro. “Sáng tạo
là kết nối các sự vật”, như Steve Jobs nói. Einstein từng luôn kết nối các sự
kiện để đi đến những khám phá vĩ đại của ông. Các nhà đổi mới sáng tạo là những
người “nghĩ khác”. Giáo dục để sáng tạo, nghĩ khác, cũng như để biết kinh doanh
thông minh, làm ra sản phẩm cho xã hội, hơn là để học thuộc lòng. Sáng tạo cũng
không phải chỉ dựa trên công nghệ một cách thuần túy, như vậy chưa đủ, mà còn
phải kết nối với nhân văn, được Steve Jobs minh hoạ sống động khi cho ra mắt
iPad 2: “Chính trong cái DNA của Apple mà
một mình công nghệ thôi không đủ - chính công nghệ được kết hôn với nghệ thuật nhân văn (liberal arts), với
các ngành nhân văn (humanities), mới cho chúng ta sản phẩm làm cho tim ta reo
lên, và không ở đâu điều đó đúng hơn là ở các thiết bị hậu-PC này.” Vì thế con người cần phải được giáo dục toàn diện. Chỉ có nền giáo dục
mang tính nhân văn cao mới đáp ứng sự thách thức mà Thomas Friedman và Michael
Mandelbaum tóm tắt như sau: lấy óc tưởng tượng làm chỉ số của sự phát triển, một
tính chất mà Einstein từng cho là vô cùng quan trọng trong nghiên cứu khoa học:
Nhìn về phía trước, chúng ta tin chắc
rằng thế giới ngày càng được phân chia giữa các quốc gia làm-cho-có-khả-năng-tưởng-tượng
cao, cổ vũ và làm cho dân tộc họ có khả năng tưởng tượng và những “thứ đặc biệt”
(extras) khác, và các quốc gia-làm-cho-có-khả-năng-tưởng-tượng thấp, ngăn chặn
hay thất bại trong việc phát triển các năng lực sáng tạo của dân tộc họ, và
phát triển các khả năng làm bật ra những ý tưởng mới, khởi nghiệp những công
nghiệp mới, và nuôi dưỡng cái “đặc biệt” của riêng họ.
Trong hướng đó, cựu thủ tướng Goh Chok Tong của
Singapore cũng đã tuyên bố: “Đổi mới sáng
tạo và tưởng tượng đem lại cho nền kinh tế hoặc một công ty lợi thế cạnh tranh
đặc biệt. Ngày nay, phồn vinh được tạo ra bởi những ý tưởng mới.”
Sâu thẳm, lằn ranh giới giữa Việt Nam và các con rồng
châu Á không nằm ở nơi nào khác hơn là ở cách mạng công nghiệp, và
chỉ ở đó mọi năng lực trí tuệ và tay chân của một dân tộc mới được phát triển
vượt bậc. Tư duy công nghiệp hoá là tư duy bứt phá - của mọi bứt phá - với cả ý chí, quyết tâm và khát vọng, trang bị cho cả dân tộc có tầm
nhìn và óc tưởng tượng đi lên. Giáo dục để phục vụ cho công cuộc công nghiệp
hoá này, chuyển hoá tri thức thành giá trị kinh tế, như người Nhật đã từng làm.
Nếu không, giáo dục sẽ mất đi định hướng và ý nghĩa xã hội, và đất nước vẫn sa
lầy mãi trong bẫy thu nhập trung bình.
Công nghiệp hoá cũng không thể thành công nếu không
có lòng yêu nước nồng nàn của con người muốn thay hiện trạng
xã hội. Tạo ra thay đổi mạnh mẽ đòi hỏi “năng lượng cảm xúc” (emotional energy)
mạnh mẽ và sự bền bỉ. Đó chính là lòng yêu nước, yêu con người. Lịch sử thế giới
đã chứng minh rằng, chính lòng yêu nước là động cơ quan trọng bậc nhất trong mọi
cuộc duy tân vĩ đại. Hãy nhìn những tấm gương Đức, Nhật và Hàn quốc!
★
Người Nhật đã làm thế nào để phát triển khoa học
trong quá khứ? Họ được những người thầy từ phương Tây nhắc nhở rằng, không nên
xem khoa học như trái cây có sẵn để mua được, và các thầy cũng không muốn mình
là những người đi bán trái cây, mà phải quan niệm rằng khoa học là cái cây mà
thầy và trò phải vun xới mảnh đất theo đúng các tiêu chuẩn để nó ra trái ngọt.
Những năm qua, sự đơm hoa kết trái ngày càng hiện rõ hơn bao giờ hết khi hầu
như năm nào người Nhật cũng đều có giải Nobel, giống như người Đức đầu thế kỷ
20. Đó là trái mà cây khoa học đã đơm ở tầng cao nhất. Khu vườn khoa học của họ
chính là mảnh đất văn hoá không ngừng được vun xới và chăm
bón. Không có mảnh đất văn hoá đó, người ta phải chịu tốn kém đi mua trái của
khoa học suốt đời. Các tiêu chuẩn chăm sóc mảnh vườn, và của khoa học, là phổ
quát - universal. Trật đi, cây không bao giờ
có trái.
“Thích nghi hay tiêu vong, mãi mãi là mệnh lệnh
nghiệt ngã của tự nhiên”, đó là lời nhắc nhở của một học giả Anh nổi
tiếng, H.G. Wells, trong quyển sách Một lược sử thế giới năm
1922 từng được bán ra trên 2 triệu bản. Đó là qui luật của sự sinh tồn. Việt
Nam từng vượt qua những thử thách ngoại xâm nghiệt ngã. Tôi tin rằng với tinh
thần yêu nước nồng nàn, ý chí mạnh mẽ, với tinh thần cởi mở và con mắt quan sát
sắc bén, không ngừng học hỏi thế giới, biết chọn những đổi mới có tính bứt phá,
Việt Nam sẽ thành công như những quốc gia khác, trước thách thức vực dậy đất nước
để cùng bước vào cao nguyên của các quốc gia công nghiệp hoá phồn vinh và hùng
mạnh. Dân tộc Việt Nam phải tiến lên công nghiệp hoá để trường tồn!
Nguyễn
Xuân Xanh
Tháng 11, 2016
1. Góp ý cho Hội nghị “Kiều bào chung sức xây dựng
TP Hồ Chí Minh phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế” tại TP Hồ Chí
Minh ngày 12 và 13 tháng 11 năm 2016. Được bổ sung thêm một số chi tiết sau đó.
No comments:
Post a Comment