Defend the Defenders | 24/5/2014
Chỉ với quan hệ thiết thực và nhất thiết phải thành tâm với Mỹ, giới
chính khách cô đơn ở Việt Nam mới có thể lôi kéo được sự quan tâm phần nào của
Liên minh châu Âu và cộng đồng thế giới nói chung.
*
Bắt
đầu “thoát Trung”
Không chỉ giàn khoan 981 sừng sững, cả một hạm đội
nhỏ của Trung Quốc lao vào “vùng tranh chấp lãnh hải” và những tin tức ban đầu
về 5 sư đoàn thiết giáp được Bắc Kinh điều động áp sát biên giới phía Bắc Việt
Nam rất có thể đã xúc tác cho động tác đối ngoại dứt khoát hơn của giới lãnh đạo
Hà Nội, hay khiêm tốn hơn là “một bộ phận” trong giới lãnh đạo đang ngổn ngang
ý thức hệ về hướng nhìn ngoại bang.
Trong tuần này, sau cuộc tổng biểu tình thất bại của
công dân và cuộc đàn áp tổng biểu tình thành công của chính quyền, người ta đã
chứng kiến vài phản ứng dè dặt đầu tiên của những người vẫn quen im lặng. Quốc
hội Việt Nam là trường hợp tiêu biểu nhất.
Trong một diễn biến được xem là chịu sức ép rất lớn
từ dư luận nhân dân và cử tri cả nước, Quốc hội đã đưa ra bản tuyên bố về
“Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng chủ quyền”. Có thể ghi nhận rằng từ rất nhiều
năm qua, gần 500 đại biểu quốc hội mới thể hiện tính nhất trí an ủi đối với một
vấn đề cực kỳ thiết thân đến vận mạng quốc gia và cũng với sinh mạng chính trị
của toàn bộ giới chính khách Việt Nam. Sau tín hiệu xâm lăng của giàn khoan 981
và cho đến lúc này, chắc hẳn không mấy quan chức – kể cả những người bị xem là
thân thiết nhất với Bắc Kinh – còn mơ màng về chuyện sẽ thu xếp được một kết
quả có hậu với người Hán. Ngược lại, linh cảm rất gần về một tai họa khủng
khiếp và gần gũi không kém lại đang ập đến.
Ai cũng thừa hiểu rằng nước mất sẽ tan nhà. Và như
bài học lịch sử ngàn năm bắc thuộc còn thảm thiết lưu truyền, vua chúa nước Nam
cùng lắm chỉ còn “ngựa xe vài cỗ, quân hầu lơ thơ”.
Tình thế ngàn cân như thế đã khiến giới quan sát
không quá ngạc nhiên khi tiếp tục chứng kiến những bước đi dạn dĩ hơn trong
phong trào “xoay trục” sang phương Tây. Tại Diễn đàn kinh tế thế giới ở Manila,
Philippines, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trở thành chính khách cao cấp đầu
tiên của Việt Nam thể hiện đôi chút chính kiến về vấn đề biển Đông. Lần đầu
tiên vị thủ tướng quen đọc diễn văn này dùng từ “viển vông” như một cách hành
văn nói trong tuyên ngôn nhắm tới “tình hữu nghị” với chế độ độc đảng toàn trị
Bắc Kinh.
Mặc dù đối với dư luận người dân trong nước, chừng
đó chính kiến của ông Dũng vẫn còn là quá ít so với áp suất khổng lồ mà Bắc
Kinh đè nén Việt Nam suốt nhiều năm qua, nhưng ít nhất đã không còn là một sự
im lặng đáng sợ kéo dài quá lâu của toàn bộ triều đình Hà Nội.
Lại
“hợp tác hải quân”
Trong một động thái hầu như im lặng khác, Washington
lại chẳng hề vội vã biểu cảm trước tình cảm thúc bách của giới ngoại giao Việt
Nam về mối họa Trung Quốc. Không thể nói khác hơn là người Mỹ đã có quá đủ kinh
nghiệm về điều mà họ coi là bất nhất đối với Hà Nội từ sau sự kiện Việt Nam
được tham gia vào WTO và còn được dỡ bỏ khỏi danh sách các quốc gia cần quan
tâm đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo (CPC) vào năm 2007. Đơn giản là nếu
chính quyền của một trong những quốc gia bị coi là có thành tích vi phạm nhân
quyền nổi bật nhất thế giới không có được tối thiểu vài ba bằng chứng “có thể
chứng minh được” về thành tích cải thiện nhân quyền, Hoa Kỳ sẽ chẳng có lý do
gì để bênh vực họ, cho dù Trung Quốc có thể tấn công Việt Nam vào bất cứ thời
điểm nào.
Chỉ đến khi Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh –
cấp phó trực tiếp của lãnh đạo cao cấp được giới quan sát xem là có đầu óc “cải
cách” nhất là ông Nguyễn Tấn Dũng – tổ chức cuộc điện đàm với ngoại trưởng Mỹ
John Kerry và còn được một số báo chí nhà nước đưa tin, hiệu nghiệm của liều
thuốc Phòng bầu dục mới bắt đầu tác dụng: hầu như nay lập tức, Phạm Bình Minh
được Bộ ngoại giao Hoa Kỳ mời viếng thăm đất nước của Hạm đội 7.
Giới quan sát quốc tế cũng hẳn không quên chỉ trước
cuộc điện đàm trên ít ngày, tư lệnh hạm đội 7 của Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương
đã bắn tin trên Reuters về khả năng “Hải quân Mỹ sẵn sàng hợp tác với hải quân
Việt Nam”. Lần ngược về quá khứ, hải quân hai nước này đã có mối quan hệ giao
lưu từ tháng 4/2013 tại Đà Nẵng. Tuy nhiên, điều khó hiểu là từ đó đến nay vẫn
chỉ là vài sự kiện nhỏ nhoi, chỉ là lượng tàu chiến đếm trên bàn tay của Mỹ
thăm viếng Việt Nam – một con số quá nhỏ so với hơn 100 tàu Trung Quốc luôn lờn
vờn bên cạnh giàn khoan HD 981.
Phạm Bình Minh sẽ đến Mỹ, đó là điều hầu như chắc
chắn. Và có lẽ đến lúc đó, sự im lặng của người Mỹ mới trở nên có âm hưởng.
Cùng với tiếng nói đầu tiên của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Manila về “tình
hữu nghị viển vông” với Trung Quốc, hẳn điều mà chính giới Việt Nam thật sự
mong đợi là một bản hiệp ước tương trợ quốc phòng giữa họ với Mỹ, như kết quả
rất đáng khích lệ mà Philippines đã thu hoạch ngay sau chuyến công du của Tổng
thống Barak Obama đến nước này vào cuối tháng 4/2014.
Chỉ một hiệp ước quân sự với Hoa Kỳ mới đủ sức kềm
giữ lòng tham của người “Láng giếng tốt”.
Chỉ bằng vào sự có mặt của hạm đội 7, hải quân Việt
Nam mới có thể tự tin hơn trong cuộc đối đầu với hải quân và tàu ngầm Trung
Quốc, mới có hy vọng giữ được các vị trí tiền tiêu ở Đà Nẵng và Cam Ranh mà
không bị đẩy sâu vào đất liền.
“Đối
tác toàn diện chiến lược”?
Chỉ với quan hệ thiết thực và nhất thiết phải thành
tâm với Mỹ, giới chính khách cô đơn ở Việt Nam mới có thể lôi kéo được sự quan
tâm phần nào của Liên minh châu Âu và cộng đồng thế giới nói chung.
Trong một tín hiệu mới nhất, không phải Nhà Trắng mà
lại là tư lệnh quân đội Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương bắn tiếng rằng
“Mỹ muốn hợp tác chiến lược với Việt Nam”. Không cần diễn giải quá nhiều, giới
quan sát đều thừa hiểu giới chính khách Việt đang ngả sang phương Tây mong đợi
đến thế nào mức hợp tác hấp dẫn này, trong khi trước đó chỉ là cấp “đối tác
toàn diện” mà chẳng mấy có ý nghĩa tương hỗ quân sự.
Những động tác thực và giả diễn ra liên tục từ phía
Trung quốc vừa qua và trong thời gian tới, cùng với động thái “xoay trục” sang
phương Tây của một bộ phận giới lãnh đạo Việt Nam, sẽ cho thấy những tuần lễ
tới có thể đầy ắp tin tức hấp lực, cơ hội cùng rủi ro cho bất kỳ phe phái nào
và chính khách nào ở Việt Nam.
Thậm chí đến một lúc nào đó, tinh thần biểu tình của
nhân dân đã từng bị chính quyền ngăn cấm thô bạo sẽ có cơ may được chính giới
lãnh đạo khẩn thiết “kêu gọi”.
Thường
Sơn
No comments:
Post a Comment