Đức Tâm - RFI
Thứ hai 26 Tháng Năm 2014
Trong
bối cảnh tình hình Biển Đông đang căng thẳng bởi những ý đồ bành trướng muốn
độc chiếm vùng Biển Đông của Trung Quốc đã trở nên rõ ràng. Sự kiện Bắc Kinh
đưa giàn khoan dầu HD -981 một cách trái phép vào vùng thềm lục địa Việt Nam là
một minh chứng mới cho thái độ ngạo mạn nước lớn của Trung Quốc với các nước
láng giềng.
RFI xin giới thiệu bài viết mang tiêu đề “ Sự Ngạo
mạn nguy hiểm của Bắc Kinh ở Biển Đông, của tác giả Philip Bowring, một cây
viết đã cắm chân ở châu Á từ 39 năm nay chuyên viết về các vấn đề tài chính và
chính trị của khu vực, đăng trên nhật báo Hồng Kông South China Morning Post
hôm 18/5/2014.
Philip Bowring nói rằng sự mặc cảm tự tôn và việc
diễn giải có chọn lọc lịch sử Đông Nam Á là những yếu tố nguy hại gây căng
thẳng tại Biển Đông.
Cách hành xử hiện nay của Trung Quốc với các nước
láng giềng ở Biển Đông là hung hăng, ngạo mạn và sặc mùi tư tưởng Đại Hán và tự
tôn dân tộc. Thay vì bày tỏ lòng tự hào dân tộc, cách hành xử này gây tiếng xấu
cho lòng ái quốc. Những người Hồng Kông yêu nước cần phải nhận diện ra : Đó là
một mưu kế nguy hiểm.
Không chỉ nhe răng bành trướng đe dọa Việt Nam và
Philippines, mà giờ đây, Bắc Kinh còn đẩy Indonesia từ chỗ có lập trường hành
động như trung gian hòa giải giữa Trung Quốc và các quốc gia ở Biển Đông chuyển
sang thành kẻ thù. Trong những tháng qua, đã hai lần Indonesia tố cáo Trung
Quốc đưa ra đòi hỏi chủ quyền đối với một phần quần đảo Natuna. Thật là quá thể
đối với cái gọi là « sự trỗi dậy hòa bình » khi người ta gây khó chịu cho các
nước láng giềng có tới hơn 400 triệu dân mà người ta khẳng định là yếu kém.
Tất cả những đòi hỏi về biển đảo của Trung Quốc nằm
bên trong đường 9 đoạn, rộng hơn 1000 hải lý kể từ bờ biển Quảng Đông và Hải
Nam cho tới đảo Borneo của Malaysia, Indonesia và Brunei và bao gồm hầu như
toàn bộ vùng biển giữa Việt Nam và Philippines. Đòi hỏi của Trung Quốc chiếm
hơn 90% diện tích Biển Đông, cho dù Trung Quốc (kể cả Đài Loan) chỉ có khoảng
20% bờ biển trong vùng.
Tất cả các đòi hỏi chỉ dựa trên các yếu tố lịch sử,
rất thuận tiện cho việc không cần biết đến sự tồn tại của các dân tộc khác và
lịch sử hàng hải và buôn bán của họ có từ 2000 năm nay, trước cả khi Trung Quốc
đi xuống vùng biển phía nam và xa hơn nữa. Người Indonesia đã tới Châu Phi và
thuộc địa Madagascar trước Trịnh Hòa (Zheng He) hơn 500 năm. Ngược lại, các dân
tộc ở Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và thế giới Hồi giáo hơn là của Trung
Quốc.
Trong trường hợp hiện nay với Việt Nam, về việc đưa
giàn khoan vào vùng biển ở phía đông Đà Nẵng, có một vấn đề nhỏ đối với Trung
Quốc : Chính quyền Bắc Kinh hiện làm chủ quần đảo Hoàng Sa, gần với nơi đặt
giàn khoan hơn là Việt Nam. Tuy nhiên, quần đảo này từ lâu là nơi tranh chấp
giữa hai nước, và vụ việc đã được giải quyết với việc Trung Quốc vô cớ đánh
chiếm quần đảo này năm 1974.
Thế nhưng, do quần đảo này chưa bao giờ có được một
giảp pháp vĩnh viễn, nên khi so sánh với Việt Nam, thì khó có thể nói quần đảo này
là trường hợp nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Lịch sử cho chúng ta
thấy là bờ biển này vốn là trung tâm của một nhà nước Cham buôn bán, mà cách
nay 1000 năm, họ đóng vai trò chủ chốt về thương mại trong khu vực.
Lẽ ra, đây phải là một trường hợp thỏa hiệp giữa
Trung Quốc và Việt Nam. Malaysia và Thái Lan cũng từ dàn xếp với nhau để quản
lý một hòn đảo trong vùng giàu khí đốt nằm giữa hai nước, ở vịnh Thái Lan. Các
quốc gia khác – Indonesia, Singapore, Malasyia – đưa các vấn đề sở hữu đảo lên
Tòa án Công lý Quốc tế và chấp nhận phán quyết của Tòa. Thế nhưng, Trung Quốc
vẫn không sẵn sàng cho một thỏa hiệp hoặc chấp nhận đưa ra Tòa. Trong khi đó,
không thể có việc cùng khai thác, bởi vì Trung Quốc đưa ra điều kiện là các bên
phải chấp nhận chủ quyền của họ ở đó.
Trong trường hợp các bãi đá ngoài khơi Philippines,
đòi hỏi của Trung Quốc dựa trên một sự pha trộn giữa lịch sử được phóng tác và
việc Trung Quốc là nước đầu tiên đưa ra đòi hỏi chủ quyền ; đây là một chứng cứ
nghèo nàn, bởi vì Trung Quốc không liên tục hiện diện ở đó, trong khi
Philippines đã kế thừa hiệp định được ký kết giữa các cường quốc thực dân
phương Tây.
Bãi đá Scarborough nằm cách đảo Luzon khoảng 200 km
và cách Trung Quốc khoảng 650 km. Đòi hỏi của Trung Quốc về chủ quyền đối với
bãi đá Vành Trăng Khuyết (Half Moon Shoal) còn lố bịch hơn. Tại bãi đá này mà
Philippines đã bắt giữ các ngư dân Trung Quốc bị cáo buộc đánh bắt rùa biển
khổng lồ, một loài động vật được bảo vệ. Theo phản xạ, Bắc Kinh phản đối. Bãi
đá này cách Palawan 110 km và cách Trung Quốc gần 1500 km.
Các đòi hỏi phi lý có từ thời Quốc Dân Đảng và vấn
đề không phải là ở chỗ này hay chỗ khác. Không hề có chuyện là các trước đây,
các nước đã thỉnh thoảng phải triều cống Bắc Kinh. Đối với các nước buôn bán
này, triều cống là một thứ thuế, cái giá phải trả để kinh doanh với Trung Quốc,
nhưng không bao hàm vấn đề chủ quyền. Và nếu Trung Quốc thỉnh thoảng hành động
như một đế quốc trong vùng, thì điều này chắc chắn gây lo ngại, nhưng không
phải là một cơ sở để khẳng định quyền làm chủ đối với một vùng rộng lớn trên
biển Mã Lai. Nếu như vậy, thì Thổ Nhĩ Kỳ có thể nói Ai Cập là của họ và toàn bộ
vùng Trung Á là của Nga.
Một nước Trung Hoa phục hưng muốn giương oai sức
mạnh của mình và chứng tỏ là ông trùm của khu vực – chính đây là điều mà họ tìm
cách thể hiện khi đánh Việt Nam năm 1979 – và nhắc nhở Hoa Kỳ về sự yếu kém của
Washington. Thế nhưng, ở đây, cũng có một sự lưỡng lực trong việc đối xử bình
đẳng với các nước láng giềng không thuộc tộc Hán, các dân tộc này có lịch sử và
văn hóa riêng của họ và ngoại trừ Việt Nam, chưa bao giờ các nước đó chịu ảnh
hưởng nặng nề của Trung Quốc.
Lịch sử về sự tự tôn của Trung Quốc, nhất là đối với
các tộc có mầu da sẫm hơn, có từ lâu đời. Niềm tin về ưu thế sinh học và sự cần
thiết phải bảo vệ và thúc đẩy các đặc trưng di truyền của tộc Hán đã thể hiện
mạnh mẽ trong thời kỳ nền Cộng hòa và có được sự cộng hưởng trong công luận
cũng như chính sách xã hội của cựu lãnh đạo Singapore Lý Quang Diệu.
Đã từ lâu, tư tưởng này bị bác bỏ ở phương Tây và bị
lên án dưới thời Mao Trạch Đông. Như giờ đây, tư tưởng này đang phục hồi ở
Trung Hoa lục địa, một vài nhà nghiên cứu cảm thấy khó mà chấp nhận được rằng
người hiện đại xuất phát từ Châu Phi và do vậy, Trung Quốc không phải là cội
nguồn duy nhất và riêng rẽ của loài người.
----------------------------------------------
No comments:
Post a Comment