Berthold Seewald
Phan Ba dịch từ báo Thế Giới [Die Welt]
Tháng Năm 19, 2014
Năm
1979 Bắc Kinh đã phủ lên láng giềng phía Nam của họ một cuộc chiến dữ dội. Và
ngay từ thời đó thì đã là vì biên giới rồi, những đường biên giới mà các thế
lực Phương Tây đã ép buộc Trung Quốc trong các “hiệp ước bất bình đẳng”
Quân đội Việt Nam trước khi rút khỏi Campuchia trong tháng 12 năm 1988.
Mười năm trước đó, họ đã lập đổ chế độ cộng sản Pol Pot đồng minh với Trung
Quốc. Hình: picture-alliance / dpa
Cùng hướng tới các học thuyết của Marx và Lênin
không ngăn cản các quốc gia dùng bạo lực tấn công nhau, điều này đang được
Trung Quốc và Việt Nam chứng minh trong những ngày này. Đã có nhiều người chết
trong những cuộc bạo động chống nhà máy Trung Quốc ở Việt Nam, và tờ “Toàn Cầu
Thời Báo” Trung Quốc thân với chính phủ đe dọa là nước này cũng có thể dùng tới
những “biện pháp không hòa bình”, nếu như các cuộc biểu tình chống Trung Quốc
khoan dầu ở Biển Đông trở thành quá khích.
Đó không phải la những lời đe dọa suông, điều này
thì đã được hai nước chứng minh trước đây 35 năm. Thời đó, nhiều trăm ngàn lính
Trung Quốc tấn công miền Bắc Việt Nam. Người ta cho rằng 80.000 người đã tử
trận hay bị thương chỉ trong vòng vài tuần. Nguyên cớ cho cuộc Chiến tranh Đông
Dương lần thứ ba, như cuộc Chiến tranh Việt – Trung thỉnh thoảng cũng được gọi
như vậy, thêm một lần nữa là những cuộc tranh cãi biên giới. Nguyên nhân của
chúng lại nằm trong các “hiệp ước bất bình đẳng” mà các thế lực nước ngoài đã
ép buộc đế chế Trung Quốc trong thế kỷ 19. Qua đó, tranh cãi giữa Trung Quốc và
Việt Nam có thể so sánh được với xung đột vì các hòn đảo không người sinh sống
Senkaku hay Điếu Ngư ở biển Hoa Đông, những hòn đảo mà Nhật Bản đã giành lấy từ
láng giềng to lớn sau chiến thắng năm 1895 của họ.
Cả hai trường hợp này là những ví dụ rất tốt cho
việc Trung Quốc hiện đại dùng lịch sử của họ như là một sức mạnh nhận dạng như
thế nào. Trong trường hợp của Việt Nam thì đó là kết quả của cuộc Chiến tranh
Thuốc phiện lần thứ nhì. Năm 1856, Liên hiệp Anh lợi dụng một hành động của
cảnh sát Trung Quốc chống một con tàu dưới lá cờ Anh để gởi Hải quân Hoàng gia
chống lại đất nước của hoàng đế. Nước Pháp dưới Napoleon III cũng tham gia.
Năm 1858, tàu chiến Phương Tây chiếm và phá hủy nhiều
pháo đài. Trong Hiệp ước Thiên Tân, Trung Quốc phải mở cửa mười cảng cho những
người chiến thắng, bảo đảm tự đo đi lại cho người ngoại quốc, bồi thường và hợp
thức hóa việc buôn bán thuốc phiện. Khi hoàng đế từ chối không ký tên vào hiệp
ước, một đoàn quân viễn chinh của đồng minh đã phá hủy dinh mùa hè tuyệt đẹp ở
đông bắc Bắc Kinh. Nhà văn Victor Hugo cay đắng ghi nhận: “Một ngày nào đó, hai
tên cướp xông vào dinh thự mùa hè. Một tên cướp bóc, tên kia phóng hỏa… Chúng
ta người châu Âu là văn minh, đối với chúng ta người Trung Quốc là dân man rợ:
Thế đấy, nền văn minh đã làm điều đó với dân man rợ.”
Sau đó, Bắc Kinh đã dựng kịch bản đánh trả thù cho lần tấn công vào Việt
Nam của họ. Tháng Hai 1979, quân đội Trung Quốc vượt qua biên giới. Hình chụp
một đơn vị pháo binh của Việt Nam. Hình: AFP/Getty Images
Hiệp
ước Hữu nghị với Pol Pot
Hiệp ước Thiên Tân là một dấu mốc trong sự sụp đổ hệ
thống triều cống mà với nó Trung Quốc đã trói buộc các quốc gia láng giềng vào
vũ trụ của nó. Qua triều cống – tượng trưng – những người đang trị vì
Việt Nam công nhận quyền tối cao của hoàng đế. Bây giờ thì người Pháp bắt đầu
không chỉ mang miền Nam của “Đông Dương” vào vòng kiểm soát của họ mà cũng thâm
nhập ra miền Bắc, Bắc Bộ. Trong nhiều bước, Trung Quốc buộc phải chấp nhận
đường biên giới mà các thế lực thuộc địa ép buộc.
Lần chia biên giới đó đã dẫn tới xung đột vũ trang
năm 1979. Trong các cuộc chiến chống Pháp (cho tới 1965) và Hoa Kỳ với đồng
minh của nó (cho tới 1975) nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã hỗ trợ rất nhiều
cho chính quyền Bắc Việt. Điều đó đột ngột thay đổi, khi Việt Nam, dựa trên
liên minh với Liên bang Xô viết, can thiệp vào Campuchia năm 1979 và lật đổ chế
độ độc tài thời Đồ Đá của Khmer Đỏ.
Những người này là đồng minh của Bắc Kinh. Ở đó,
người ta hiểu lần mở rộng vùng ảnh hưởng của Việt Nam này là một cố gắng bao
vây của Xô viết ở phía Nam và tức giận phản ứng. Một hiệp ước hữu nghị được ký
kết với chế độ Pol Pot đang chao đảo. Và Việt Nam bị tấn công vì liên tục xâm
phạm biên giới. Trong khi Trung Quốc đưa ra 3535 vụ việc thì dân tộc cộng sản
anh em thù địch trả đũa với 2158 “lần khiêu khích”.
Vào ngày 17 tháng Hai, quân đội Trung Quốc tấn
công. Tròn 200.000 người, được yểm trợ bởi nhiều xe tăng và máy bay chiến
đấu, thâm nhập vào đất Việt nam sâu có cho tới 40 kilômét. Những người chiến
đấu bảo vệ đã làm việc mà họ đã từng làm trong những cuộc chiến tranh thắng lợi
chống các cường quốc Phương Tây: họ lui về các hệ thống phòng thủ trong rừng
rậm và kháng chiến linh hoạt.
Mặc dù có thế mạnh hơn, quân đội Trung Quốc phải chịu nhiều tổn thất lớn.
Có cho tới 80.000 người bị cho là đã tử trận hay bị thương trong cuộc chiến kéo
dài ba tuần. Hình: AFP/Getty Images
Chiếm
hữu vì tài nguyên
Mặc dù phần lớn lực lượng Việt Nam còn đang hoạt
động ở Campuchia và miền Nam, người Trung Quốc vẫn không đạt được một chiến
thắng vinh quang. Còn ngược lại. Peter Scholl-Latour trong quyển sách bán chạy
của ông “Der Tod im Reisfeld” ["Cái chết trên ruộng lúa"] (1980) đã
mô tả lại sức chiến đấu của người Việt Nam. Vào ngày 16 tháng Ba, “cú đánh trả
thù”, như sử gia Kai Vogelsang phỏng đoán chiến dịch này, chấm dứt. Cả hai bên
đều tuyên bố chiến thắng. Ước lượng của các nhà quan sát, mà theo đó các đối
thủ đã mất mỗi bên tròn 40.000 người, nói về một bất phân thắng bại – không làm
cho cường quốc Trung Hoa hài lòng.
Sau đó, hai chính quyền đã có thể dàn xếp được các
tranh cãi biên giới của họ, ít nhất là đối với đường biên giới trong rừng rậm
trên đất liền. Tuy vậy, cuộc tranh cãi vì các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
trước bờ biển nhiều trăm kilômét vẫn tiếp tục. Vào lúc ban đầu, nước Pháp đã
trao các hòn đảo lại cho đế chế, nhưng sau đó lại thôn tính chúng.
Với những lập luận lịch sử, cả Malaysia, Đài Loan,
Brunei và Philippines cũng tuyên bố chủ quyền nhóm các hòn đảo bé tí đó, trước
hết như là danh hiệu sở hữu cho tài nguyên ở dưới đáy biển. Không phải bỗng
dưng mà những người biểu tình ở thủ đô Manila của Philippines đã yêu cầu Trung
Quốc chấm dứt các hành động “gây rối” ở biển Đông sau các cuộc bạo loạn tại
Việt Nam.
Trong khi đó Trung Quốc dường như đang kiên quyết
xác định vị thế quyền lực mới của họ cùng với việc xét lại các “hiệp ước bất
bình đẳng” và các hậu quả rắc rối của chúng. Đã từ lâu, xã hội cộng sản phát
triển không còn là mục tiêu của ĐCS nữa, mà là “xã hội hài hòa”, như nhà tư
tưởng thời xưa Khổng Tử đã giảng dạy: như là “là khái niệm tư tưởng dẫn đầu của
sự thống trị tuyệt đối” (Kai Vogelsang) cho đối nội và – càng nhiều càng tốt –
cho đối ngoại.
Berthold
Seewald
Phan
Ba dịch từ báo Thế giới [Die Weilt]:
No comments:
Post a Comment