22/05/2014
Các viên chức nhà nước CSVN thường hay nói rằng công
hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là « vũ khí tuyên truyền » của Trung
Quốc. Thực ra điều này chỉ có thể thuyết phục được các học giả trong nước. Vì
không có điều kiện tiếp cận thông tin, hoặc do áp lực của « sổ
lương » hay « sổ hưu », do đó các học giả VN dễ dãi tin theo.
Trong lúc các tác phẩm của các học giả, những nhà nghiên cứu quốc tế… những người
thân VN thì cho rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng đã làm yếu đi hồ sơ
chủ quyền của VN tại HS và TS. Có người trung dung, không thân phe nào, cho
rằng VN đã bị « estopped – forclusion », tức bị mất tố quyền. Phía
Trung Quốc, mới đây cũng lên tiếng rằng VN đã bị « Estoppel » nhưng
không biết là vào trường hợp nào ?. Theo người viết thì công hàm 1958 đã
khiến VN bị mắc vào trường hợp « estoppel par acquiescement - estoppel by
acquiscence ».
(Ý nghĩa của thật từ luật học « Estoppel »
là thế nào, lý ra phải cần một nhà luật học giàu kinh nghiệm, để có thể giảng
nghĩa nói rõ rệt về các « trường phái » Estoppel trên thế giới. Chưa
thấy có học giả người Việt nào nói về Estoppel một cách đầy đủ và thuyết phục.
Thật đáng tiếc).
Tiểu
đoạn này thử đặt giả sử rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng không hề hiện
hữu. Ông Phạm Văn Đồng chưa bao giờ ký, và nhà nước VNDCCH chưa bao giờ ra
tuyên bố bất kỳ liên quan lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc.
Câu
hỏi đặt ra là chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa có bị mất vào Trung
Quốc hay không ?
Học giả Monique Chemillier-Gendreau, sau khi phản
bác ý kiến một số học giả quốc tế cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng khiến VN bị
vướng nguyên tắc « estoppel », đã có ý kiến về việc này :
« Néanmoins, son silence devant l’affirmation
de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme un
acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration
relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan.[i] »
Tạm dịch : « dầu vậy, sự im lặng (của nhà
nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể
được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố
liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân. »
Thế
nào là « sự đồng thuận – acquiescement » và hiệu lực pháp lý của nó
như thế nào ?
« l’Acquiescement » được định nghĩa là
« thuật ngữ thuộc quá trình tố tụng chỉ định hành vi qua đó một bên tranh
chấp, một cách minh thị hay mặc thị, vô điều kiện hay có điều kiện, chấp nhận
một nghĩa vụ hay một yêu cầu của bên kia. »
Theo tập quán quốc tế, (thể hiện qua các án lệ của
các tòa án quốc tế), ít khi nào một bên bị mắc « acquiescement » chỉ
vì một dấu hiệu (ưng thuận) đơn lẻ nào đó. Một « sự đồng thuận –
acquiescement » luôn là sự kết tinh của một quá trình logic, một tập hợp
những « dấu hiệu » thể hiện trong một thời gian lâu dài, từ đó cấu
thành một « lập trường » (một thái độ) của một bên.
Ý kiến của học giả Monique Chemillier-Gendreau,
trong bối cảnh phản bác ý nghĩa VN bị ràng buộc theo nguyên tắc
« estoppel », như đã thấy trong câu dẫn trên, VN đã thể hiện một loạt
các hành vi có thể cấu thành yếu tố « đồng thuận ».
Sau khi Trung Quốc ra tuyên bố đơn phương về lãnh
thổ và hải phận ngày 4 tháng 9 năm 1958 (Tuyên bố này có hình thức
« décision[ii] - quyết
định » hơn là hình thức « notification[iii] »).
Theo tập quán quốc tế, các nước nếu công nhận lập trường này, sẽ gởi công hàm
trả lời mang hình thức « reconnaissance[iv] – công
nhận ». Trường hợp không đồng ý thì gởi công hàm « phản đối –
protestation[v] ».
Giả sử rằng phía VN « im lặng », không bày
tỏ bất kỳ một hành vi nào liên quan đến tuyên bố của Trung Quốc. (Tức giả sử
rằng công hàm Phạm Văn Đồng không hiện hữu).
Theo tập quán quốc tế, thái độ « im lặng »
này sẽ được hiểu là sự « đồng ý ám thị - consentement tacite ».
Thí dụ trường hợp Trung quốc ra tuyên bố về vùng
« Nhận
diện phòng không » ngày 23-11-2013. Tuyên bố này phù hợp với công pháp
quốc tế.
Điều 1 của Công ước Chicago 1944 qui định vùng bầu
trời phía trên lãnh thổ, lãnh hải và vùng tiếp cận lãnh hải của một quốc gia
thì thuộc chủ quyền của quốc gia đó. Tức là trong vòm trời đó, quốc gia có đầy
đủ thẩm quyền quốc gia đối với người hay các phương tiện qua lại.
Một quốc gia bất kỳ nếu không lên tiếng phản đối,
hay bảo lưu một điều nào đó trong tuyên bố (như chồng lấn vùng không gian,
không chấp nhận việc đe dọa sử dụng vũ lực – theo điều 3 của Tuyên bố...) thì
tuyên bố này tự động có hiệu lực.
Thì thái độ « im lặng » của VN sau khi TQ
tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của họ năm 1958, có nghĩa là sự « đồng ý
ám thị », một hình thức thụ động của nguyên tắc
« acquiescement ».
Một số hành vi khác củng cố thái độ « đồng
thuận » của VN (về chủ quyền của TQ tại HS), điều này học giả Monique
Chemillier-Gendreau đã nhắc tới. Đó là các bài viết trên báo Nhân Dân vào thập
niên 60 nhìn nhận vùng biển Hoàng Sa (mà Đệ thất hạm đội của Mỹ đang hoạt động)
thuộc về TQ. Hoặc các bản đồ do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất
bản năm 1960 (trên đó quần đảo Nam Sa – tức Trường Sa - được đánh dấu là lãnh
thổ Trung Quốc). Hay bản đồ do Cục Bản đồ Việt Nam xuất bản năm 1972, trong đó
quần đảo Nam Sa được chú thích bằng tiếng Hoa, chứ không phải bằng tiếng Việt,
tiếng Anh hay tiếng Pháp.
Thái
độ khác, quan trọng hơn cả là sự « im lặng » của VNDCCH vào tháng
giêng năm 1974 khi Trung quốc dùng vũ lực xâm lăng Hoàng Sa của VN.
Hành vi xâm lăng TS của TQ đòi hỏi các bên Việt Nam
phải có một thái độ dứt khoát. Phía VNCH đã có hành động quyết liệt, sử dụng
quyền « tự vệ chính đáng » để bảo vệ lãnh thổ bằng vũ lực, sau đó
bằng những tuyên bố tố cáo hành vi TQ trước cộng đồng quốc tế. Các hành vi này
đã khẳng định chủ quyền của VN tại Hoàng Sa cũng như vùng biển chung quanh.
Sự im lặng của VNDCCH được hiểu là « đồng ý ám
thị » hành vi của Trung quốc là chính đáng. Mặt khác, các bên VNDCCH và
MTGPMN từ chối ký tên vào bản tuyên bố phản đối TQ do phía VNCH đề nghị.
Các điều này kết tinh, đồng thời củng cố, yếu tố
« acquiescement - đồng thuận » của VN về các đòi hỏi về danh nghĩa
chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Các án lệ, kết quả phán quyết dựa trên thái độ
« đồng thuận – acquiescement » của một bên có rất nhiều. Các trường
hợp nổi tiếng như phán quyết của Trọng tài Max Huber trong vụ tranh chấp các
đảo Palmas (l'acquiescement de l'Espagne) năm 1934. Vụ tranh chấp lãnh thổ giữa
Bỉ và Hòa Lan (CIJ 20 juin 1959). Tranh chấp Thái-Miên về ngôi đền Préah-Vihéar
(CIJ 15 juin 1962). Vụ Barcelona, phán quyết CIJ ngày 24-7-1964. Hay phán quyết
ngày 22-12-1965 tranh chấp Pháp-Hoa Kỳ...
Tức
là, có hay không có công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, hoặc là công hàm này
có hiệu lực hay không có hiệu lực, các tranh cãi của các học giả VN sẽ không
làm thay đổi cốt lõi của vấn đề : VNDCCH đã nhìn nhận những đòi hỏi về chủ quyền của TQ tại
HS và TS.
Tức là, người đã nằm trong quan tài và nắp áo quan
đã đóng lại. Tranh cãi về công hàm Phạm Văn Đồng tương tự việc có cần đóng đinh
hay không đóng đinh nắp quan tài.
Vấn đề đáng lẽ phải là : có ai kiểm soát rằng người
trong hòm có thật sự chết hay chưa ? Hay là có phương pháp nào để cứu sống
người trong hòm hay không ?
Một thực tế pháp lý cần phải được phản biện bằng các
lý lẽ, chứng cứ pháp lý, chứ không thể phản biện bằng những lý lẽ sai (do bóp
méo dữ kiện lịch sử, pháp lý) hay bằng thái độ đà điểu.
Phải nhìn nhận thực tế « pháp lý » này để « mở đường
» khác cho VN hầu thoát khỏi bế tắc do giàn khoan 981 đem lại trên thềm lục địa
VN.
Và đó là vấn đề mà người viết sẽ trình bày trong bài
sắp tới.
---------------
[ii] Nguyen Quoc Dinh, Patrick Daillier, Mathias Forteau, Alain Pellet - Doit
International Public, L.G.D.J, 8e Edition, đoạn 242, tr 405
Publié par Nhan
Tuan Truong à 12:59
No comments:
Post a Comment