Thứ Bảy, 04/05/2013
Đã từ lâu, cứ đến ngày 30/4 là
báo chí và các phương tiện truyền thông lại đề cập đến vấn đề đoàn kết, hòa hợp
dân tộc. Đặc biệt năm nay có bài phỏng vấn Thứ trưởng Ngoại giao và Chủ nhiệm
Ủy ban Nhà nước về người VN ở nước ngoài Nguyễn Thanh Sơn được đăng trên báo
Thanh Niên số ra ngày 30/4/2013. Sau khi đọc thì tôi có những quan sát và nhận
định sau đây xin cùng chia sẻ với các bạn.
1. Ông Sơn có nhắc lại vụ đi
thăm Nghĩa trang Biên Hòa, nơi an táng các quân nhân miền Nam đã hy sinh trước
năm 1975. Theo ông thì việc này cho thấy “sự đoàn kết, hòa hợp với kiều bào ở
nước ngoài, đặc biệt là gia đình thân nhân những người đã tham gia quân đội
VNCH”.
2. Ông Sơn đã tiếp xúc với
nhiều người bên Mỹ trong đó có những người có “thâm niên chống cộng hàng chục
năm”. Và ông Sơn kết luận “Chúng ta phải tiếp tục xây dựng lòng tin. Muốn người
ta tin mình mình phải làm cái gì để người ta tin mình. Cần hiểu là nhiều người
vẫn mang tư tưởng hận thù của những người thua trận. Nhưng mà trên thực tế cuộc
chiến tranh đã qua mang lại cho đất nước nhiều mất mát đau thương. Binh lính
chế độ cũ họ cũng là con em cùng dân tộc bị đẩy vào đạn bom phi nghĩa”.
* * *
Trước tiên về vụ Nghĩa Trang
Biên Hòa. Chúng ta có nên hãnh diện khi phải đợi đến năm 2007 nghĩa là 32 năm
sau chiến tranh mới có thể dân sự hóa nghĩa trang này. Với bề dầy văn hóa hơn
4000 năm, chúng ta nghĩ sao khi những nước như Pháp, Mỹ họ đã làm điều ấy ngay
khi tiếng súng vừa ngưng? Tại Pháp, chính phủ đã cho thu gom xác quân nhân Đức
tại vùng đổ bộ Normandie vào chung một nơi tại La Cambe. Nghĩa trang này uy
nghi, tôn nghiêm mà lại mang phong thái Đức (mà chúng ta đừng quên là chính
phát xít Đức đã xâm lăng nước Pháp). Tại Mỹ, một nước “vô văn hóa” khác, ngay
sau ngày ký văn kiện đầu hàng, chẳng hề có tập trung cải tạo, các binh sĩ miền
Nam (phe thua trận) được cấp phát tiền bạc để trở về đời sống bình thường, thậm
chí người đứng đầu phe miền Nam là tướng Lee còn được tôn vinh như một người
hùng. Để thực thi “Công cuộc Tái thiết” nhanh chóng và dễ dàng, Phó Tổng thống
Andrew Johnson, một người miền Nam đã ra lệnh ân xá và khôi phục các quyền
chính trị của nhiều người miền Nam.
Ở VN, việc đoàn kết, hòa giải
đã được nêu ra từ lâu với khẩu hiệu “kiều bào là cánh tay nối dài của dân tộc”,
và đặc biệt là sự ra đời của nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính
trị nhưng đến nay mọi chuyện vẫn y như cũ. Chuyện Nghĩa trang Biên Hòa với
những từ ngữ tương đối nhẹ nhàng của bài phỏng vấn trên chắc lại có một dụng ý
nào đây!
Nhân nói đến chuyện từ ngữ, tôi
vô cùng kinh ngạc với câu “Binh lính chế độ cũ họ cũng là con em cùng dân tộc
bị đẩy vào đạn bom phi nghĩa”. Ở đây chúng ta không mất giờ để bàn xem “ai phi
nghĩa?” Nhưng tôi nghĩ ông Sơn đang ra sức vận động cho chính sách hòa giải thì
nên tránh những từ mạ lỵ này, nó xóa hết tất cả những thiện ý của ông (nếu có).
* * *
Nhưng cái quan trọng nhất trong
bài phỏng vấn ông Sơn là Nhà Nước muốn cho người đọc nhất là người đọc trong
nước thấy được rằng chỉ có một số người ở hải ngoại vẫn còn giữ những tư tưởng
sai lệch, dẫn đến những hành động chống phá đất nước. Điều này dẫn đến suy nghĩ
là toàn thể dân chúng trong nước (đại đa số) đều nhất trí với đàng và Nhà Nước.
Trong thời gian gần đây, một
điều không ai có thể chối cãi được là sự hình thành và phát triển những cá
nhân, những nhóm riêng lẻ đã can đảm đứng dậy nói lên tiếng nói của mình và của
người dân đang bị đàn áp. Tất cả, xin nhấn mạnh tất cả, họ đều chủ trương đấu
tranh một cách ôn hòa, bằng ngòi bút, bằng tư tưởng, và sẵn sàng chấp nhận
những hình phạt, tù tội một cách phi lý chỉ với mục tiêu là dân chủ hóa đất
nước.
Họ là những lãnh tụ tôn giáo,
các luật sư, bác sĩ, nhà giáo, phóng viên, thương gia, nhạc sĩ, kỹ sư… thậm chí
trong đó còn có các sinh viên tuổi đời còn rất trẻ. Những người này chưa hề
biết cầm súng, đặt bom. Chỉ biết dùng ngòi bút, tư tưởng, trí tuệ và nỗ lực của
mình để xây dựng một nước Việt Nam tự do, trong đó quyền con người được thực
thi một cách nghiêm túc như trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền mà chính
Nhà Nước Việt Nam vào năm 1997 đã long trọng cam kết tuân thủ.
Những người này chỉ là một
thiểu số can đảm đàm vượt qua hiểm nguy để nói lên tiếng nói thay cho biết bao
người khác. Chúng ta thấy trong 3 kiến nghị liên quan đến vấn đề sửa đổi Hiến Pháp,
mỗi bản thu được xấp xỉ 20 ngàn chữ ký, đó là chưa kể đến các cuộc thăm dò ý
kiến, các kiến nghị đòi thả tự do cho những người bị tù vì đấu tranh. Điều đó
có nghĩa là nếu được công bố công khai và rộng rãi, cũng như được tự do phổ
biến trên các phương tiện truyền thông, con số này dễ dàng vưọt qua hàng trăm
ngàn và thậm chí còn nhiều hơn nữa.
Rõ ràng là bây giờ trọng tâm
của những nỗ lực đấu tranh đang ở trong nước chứ không phải ở hải ngoại.
Vậy cho nên nếu thực sự nhà nước muốn thực thi chính sách hòa giải một
cách nghiêm túc thì chẳng cần phải lội tuốt sang Mỹ, chẳng cần phải “mạo hiểm
với sinh mệnh chính trị của mình”, cũng chẳng cần phải đến gặp các nhân vật hải
ngoại “có thâm niên chống cộng hàng chục năm”. Tất cả chìa khóa của vấn đề
đất nước đang nằm trong nước.
Tôi nghĩ nếu thực tâm, ngay bây giờ Nhà Nước có thể làm
những việc sau:
- Trả tự do cho những người bị
bắt giam về những tội danh chính trị, cụ thể là điều 79 và 88 của Bộ Luật Hình
Sự, đồng thời mở ra những cuộc đối thoại xây dựng với những tù nhân này.
- Chấm dứt tình trạng trù dập
những người đang đấu tranh với mục đích thay đổi đất nưóc, dân chủ hóa chế độ
và chỉ bằng những phương tiện ôn hòa, bất bạo động.
- Đặc biệt trong giai đoạn sửa
đổi Hiến Pháp, hãy nghiêm túc tiếp thu những đóng góp khác với bản Dự thảo của
Nhà Nước, cụ thể là Bản Dự thào do 72 nhân sĩ đã khởi xưóng, và Bàn Lên Tiếng
của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Tôn trọng quyền tự do chính trị, tự do ngôn
luận bằng cách dành cho những tổ chức này quyền phát biểu, quyền vận động,
quyền tranh luận trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Phạm Minh Hoàng
No comments:
Post a Comment