Trần Ngân
Viet Studies 25-5-2013
Vài
năm trở lại đây, tình hình tham nhũng, chạy chức, chạy quyền ở Việt Nam ngày
càng tăng, cộng với kinh tế suy thoái, lạm phát tăng cao, thất nghiệp lan rộng
đã đe dọa nghiêm trọng tới niềm tin của người dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản. Tình thế đó đã buộc ban lãnh đạo Đảng phải tìm ra những giải pháp mới
nhằm lấy lại niềm tin của nhân dân. Từ khi lên nắm quyền sau Đại hội Đảng lần
thứ 11, TBT Trọng và Ban chấp hành TW Đảng đã tiến hành một số biện pháp như:
-
Ra Nghị quyết Trung ương 4 về “Những vấn đề cấp bách xây dựng Đảng hiện nay” và
tổ chức rộng khắp phong trào phê và tự phê theo tinh thần nghị quyết này
-
Tái lập Ban Nội chính TW và Ban Kinh tế TW
Bài
viết dưới đây sẽ phân tích ý nghĩa của việc tái lập 2 ban này trong bối cảnh
Việt Nam hiện nay.
1. Về Ban nội chính và cuộc chiến
chống tham nhũng
Vào
năm 2007, Ban Nội chính TW lúc đó đã được sáp nhập vào Văn phòng TW Đảng. Sau
khi được tái lập vào cuối năm 2012, chức năng, nhiệm vụ của Ban Nội chính TW
hiện nay đã thay đổi rất nhiều so với trước đó. Nếu như trước đây, nhiệm vụ của
Ban rất rộng, chẳng hạn:
-
Giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực xây
dựng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa;
-
Nghiên cứu đề xuất và theo dõi việc thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng
thành pháp luật nhà nước;
-
Theo dõi việc lập và thực hiện chương trình xây dựng pháp luật của Nhà nước. (thuvienphapluat.vn)
thì
trong 6 nhóm nhiệm vụ của Ban Nội chính TW hiện nay đều có chữ “tham nhũng” (Vnexpress,
4/1/2013). Điều này cho thấy Ban này được lập ra chủ yếu để đối phó với
tình trạng tham nhũng tràn lan hiện nay.
Tuy
nhiên, câu hỏi đặt ra là: liệu việc tái lập lại Ban này có giúp được gì trong
việc giảm bớt tình trạng tham nhũng hiện nay hay không? Rất tiếc, câu trả lời
của tác giả cũng như nhiều người tỉnh táo khác là không, hoàn toàn không.
Kinh
nghiệm chống tham nhũng trên thế giới đã rất nhiều và những nguyên tắc chung
được rút ra không gì ngoài những nguyên tắc chính: (i) về mặt thể chế phải có
tam quyền phân lập, có sự phân chia và kiểm soát giữa các nhánh quyền lực; (ii)
công khai và minh bạch trong những lĩnh vực như: hoạch định và thực thi chính
sách, tài sản cán bộ công chức…; (iii) một nền báo chí tự do để người dân có
thể giám soát các quan chức của mình… Có những điều kiện này chưa chắc đã có
kết quả tốt trong việc chống tham nhũng nhưng nếu không có nó thì chắc chắn
không thể chống tham nhũng. Việc lập ra một cơ quan chống tham nhũng trong thời
đại ngày nay mà lại thiếu đi những điều kiện nền tảng ở trên mà trông mong nó
hoạt động có hiệu quả thì chỉ là sự ảo tưởng.
Về
mặt cơ chế, việc lập ra Ban Nội chính TW như thế này (với chân rết ở tất cả các
tỉnh thành, khác với trước kia là chỉ có một số địa phương có văn phòng của
Ban) rõ ràng có mục đích là “chống”, tức là có vụ án tham nhũng xảy ra rồi thì
sẽ tham gia “xử lý”. Tuy nhiên, cái gốc của tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đã
ăn quá sâu vào hệ thống, lan quá rộng ra mọi mặt của xã hội thì cách tốt nhất
phải là “phòng”, tức là phải cải cách mạnh để triệt tiêu những thể chế tạo ra
điều kiện cho tham nhũng như quyền lực, đất đai, đầu tư công, DNNN... Không
giải quyết được những vấn đề gốc rễ này mà lại đẻ ra một tổ chức để chống thì
không thể nào chống được vì có bịt lỗ này chắc chắn sẽ lại có nhiều lỗ khác xì
ra.
Về
mặt hoạt động, cũng như Ủy ban kiểm tra TW của Đảng hiện nay, nó không công
khai, minh bạch cho công chúng cách thức hoạt động mà chủ yếu là vận hành trong
nội bộ, đa số có mục đích dĩ hòa vi quí, thậm chí là “nhân văn” để duy trì sự
ổn định và đoàn kết của Đảng như lời dạy của TBT Trọng: “đấu tranh có lý có
tình để tất cả cùng tiến lên chứ không cốt kỷ luật nhiều thì mới tốt. Tính nhân
văn của NQ Trung ương 4 là thế”, “quan trọng nhất là bước đầu phải nhóm
được cái lò lên, tạo thành hơi ấm thì khi đó củi khô, củi tươi đưa vào cũng
phải cháy hết”; “Kỷ luật mà không tính kỹ, mai kia lại ân oán, thù oán, đối phó
thành phe phái, làm rối nội bộ, có nên không” (Vietnamnet,
3/12/2012). Với cách chống tham nhũng mà lúc nào cũng sợ làm hại tới “sinh
mệnh chính trị” của các quan chức như thế (còn mặc kệ sinh mệnh của dân) thì
đừng mong nó có hiệu quả.
Về
mặt con người, có lẽ TBT Trọng và một số người thực lòng muốn chống tham nhũng
đã mơ ước tới vai trò của các quan chức trong Ban Nội chính TW giống Bao Thanh
Thiên, tuyệt đối trong sạch, “thiết diện vô tư”, hoàn toàn khách quan nên đã
“trang bị” cho Ban Nội chính TW một ông Trưởng ban nổi đình nổi đám với những
tuyên bố vang trời là Nguyễn Bá Thanh và qui định là Trưởng ban sẽ là Ủy viên
Bộ Chính trị. 2 Phó ban là Ủy viên TW (trước đó không hề có). Nhưng trong bối
cảnh Việt Nam hiện nay, với một hệ thống chính trị có các quan hệ quyền lợi
ràng buộc như mạng nhện thì mơ ước trên đây chỉ là điều viển vông không tưởng.
Bản thân Nguyễn Bá Thanh được rất nhiều người kỳ vọng nhưng trước khi ra Hà Nội
đã kịp đưa con trai là Nguyễn Bá Cảnh lên làm Bí thư Thành đoàn Đà Nẵng. Chưa
kể, ông này khi còn ở Đà Nẵng đã dính không ít tai tiếng về tham nhũng. Ông
Trưởng ban đã vậy thì lấy gì đảm bảo các ông phó hoặc cấp dưới không dính vào
tham nhũng hoặc các quan hệ lợi ích nhằng nhịt. Với những cán bộ như vậy thì rõ
ràng việc xử lý các vụ án tham nhũng sẽ mang nhiều động cơ chính trị với các sự
thỏa hiệp và thương lượng để đảm bảo quyền lợi và vị trí của mình, đặc biệt là
ở cấp địa phương.
Như
vậy, có thể thấy trước rằng việc lập ra Ban Nội chính TW và coi đó là biện pháp
chủ yếu để chống tham nhũng trong giai đoạn tới chắc chắn sẽ thất bại thảm hại
vì nó không được hỗ trợ bằng những cải cách thể chế cơ bản. Cách thức hoạt động
thì không công khai, minh bạch. Cán bộ của nó, đặc biệt là cán bộ ở cấp địa
phương cũng không đáng tin vì có quá nhiều mối liên hệ chính trị rối rắm và có
chức vụ hành chính có thể thấp hơn nhiều so với cán bộ chủ chốt ở đó[1]…
Việt
Nam không dám học tập những kinh nghiệm tốt nhất ("best practice") về
chống tham nhũng đã rất nhiều trên thế giới, tức là phải tạo ra môi trường để
con người không thể (xử phạt nghiêm minh, không chạy án được), không dám tham
nhũng (công khai minh bạch tài sản của quan chức) mà Việt Nam lại muốn tạo ra
con người không muốn tham nhũng (Tất nhiên các nước khác cũng giúp quan chức
“không muốn” tham nhũng bằng việc trả lương cao cho công chức nhưng với nguồn
lực có hạn thì Việt Nam không thể làm theo). Việt Nam tạo ra sự “không muốn”
tham nhũng chủ yếu bằng động cơ tinh thần, đạo đức. Chẳng hạn, đòi hỏi cán bộ
phải có cái “tâm” trong khi chả ai định nghĩa được “cái tâm” là gì (Nếu anh có
“tâm”, sao anh không tự nguyện công khai tài sản cho dân biết đi, cây ngay
không sợ chết đứng mà). Biện pháp chống tham nhũng, tiêu cực chủ yếu hiện nay
vẫn là phê và tự phê, cho cán bộ học tập tư tưởng đạo đức HCM thì đúng là quá ảo
tưởng. Tác giả tin chắc rằng 100% người dân Việt Nam chả ai tin rằng đi học tập
tư tưởng đạo đức HCM sẽ giúp cán bộ bớt tham nhũng cả. Vậy mà người ta vẫn rầm
rộ thực hiện những việc vô bổ này, vừa tốn thời gian, tiền bạc, vừa làm lệch sự
chú ý khỏi những việc cần thiết đáng lẽ phải làm.
Khi
kinh tế suy thoái, cái bánh lợi ích bé đi thì việc tranh giành những phần bánh
còn lại sẽ trở nên quyết liệt hơn. Trong bối cảnh chính trị nhiều bè phái hiện
nay, nhiều khả năng là với cách thức tổ chức và hoạt động như thế này, Ban Nội
chính TW sẽ trở thành một công cụ để đấu đá chính trị hơn là chống tham nhũng
thực sự (Hãy nhớ ông trưởng ban Nguyễn Bá Thanh đã hạ nhục ông cựu tướng cảnh
sát Trần Văn Thanh tới mức dù đã nằm liệt trên giường bệnh vẫn bị đẩy cả giường
ra tòa vì ông này và những người khác đã dám tố cáo Bá Thanh tham nhũng).
2. Về Ban Kinh tế TW và nền kinh tế
hiện nay
Do
thành tích điều hành kinh tế kém cỏi của chính phủ do thủ tướng Dũng đứng đầu,
Đảng đã quyết định tái lập Ban Kinh tế TW để mong xoay chuyển nền kinh tế. Các
nhiệm vụ chính của Ban Kinh tế TW gồm có:
-
Thứ nhất, chủ trì hoặc tham gia nghiên cứu, đề xuất xây dựng đường lối, chủ
trương, nghị quyết đại hội, các nghị quyết, chỉ thị, quyết định về lĩnh vực
kinh tế-xã hội của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các cơ
chế, chính sách lớn về kinh tế-xã hội, phát triển lực lượng sản xuất và hoàn
thiện quan hệ sản xuất, về các vấn đề xã hội …
-
Thứ hai, thẩm định các đề án về kinh tế - xã hội trước khi trình Bộ Chính trị,
Ban Bí thư.
-
Thứ ba, … Ban Kinh tế Trung ương sẽ giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư nắm tình
hình, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, chủ trương của Đảng về đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp, đổi mới, tái cấu trúc
các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước, hệ thống ngân hàng thương mại và
các tổ chức tài chính… (Thuvienphapluat.vn)
Như
vậy, Ban Kinh tế TW có 2 nhóm nhiệm vụ chính là: (i) Nghiên cứu, đề xuất các
chính sách và (ii) Giúp Bộ Chính trị và Ban Bí thư trong việc kiểm tra và giám
sát.
Với
nhóm nhiệm vụ thứ nhất, từ khi ông Vương Đình Huệ lên làm Trưởng ban Kinh tế TW
thì ông đã có nỗ lực tiếp xúc với một loạt các trường đại học ở Việt Nam như
Đại học Thái Nguyên, Đại học Quốc gia Hà nội… (Tạp
chí Tài chính, 29/3/2013) hay Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (Infonet,
17/5/2013) để ký kết các thỏa thuận hợp tác nghiên cứu.
Vấn
đề đặt ra ở đây là nếu nhiệm vụ chủ yếu chỉ là nghiên cứu, đề xuất chính sách
thì có cần tái lập một ban đã bị giải thể và trưởng ban lại phải là Ủy viên Bộ
Chính trị hay không? Rõ ràng là không.
Việc
tư vấn chính sách thì bản thân các trường đại học hay viện nghiên cứu có thể
làm tốt thông qua cơ chế đặt hàng từ các cơ quan cần nó mà không cần thêm một
đầu mối là Ban Kinh tế TW. Nếu đồng ý rằng con đường đi lên của Việt Nam phải
là nền kinh tế thị trường có mô hình tương tự với các nước phát triển thì có
thể thấy Ban này rất khó có thể có những đóng góp gì đáng chú ý về mặt học
thuật hay những chính sách mang tính đột phá để hiện đại hóa đất nước vì nó là
một tổ chức của Đảng nên sẽ bị những rào cản lớn về mặt tư tưởng không thể vượt
qua. Ai đã từng có dịp gặp các cán bộ của Ban Kinh tế TW trước đây thì đều biết
năng lực của họ nói chung hạn chế, chủ yếu là cán bộ lý luận, nặng tính hành
chính. Các cán bộ mới năng lực cũng khó có thể khá hơn vì đa số đều được đào
tạo trong hệ thống các trường của Đảng mà bản thân các trường này cũng có tư
duy tụt hậu so với thế giới hàng trăm năm nên cũng không thể đòi hỏi gì nhiều
từ các sản phẩm do họ tạo ra. Cho dù có tuyển người thực sự giỏi, tốt nghiệp ở
các nước phát triển về (theo qui định, Ban Kinh tế TW có thể mời các chuyên gia
về kiêm nhiệm vị trí Phó ban (Pháp
luật TP.HCM, 5/1/2013) thì họ cũng khó có thể phát huy khả năng trong một
môi trường tù túng và bị kìm hãm về mặt tư tưởng và trí tuệ như vậy. Có lẽ
không phải ngẫu nhiên mà ông Huệ, TS kinh tế tốt nghiệp ở Slovakia, từng là một
giảng viên đại học lâu năm, nguyên hiệu phó Đại học Tài chính Kế toán lại ký
kết nhiều thỏa thuận với các đại học và viện nghiên cứu vì chính ông có lẽ cũng
hiểu khả năng tư duy và tầm mức trí tuệ của các cán bộ dưới quyền thế nào.
Nên
lưu ý là nhiều nhà khoa học thực sự có tài trong hệ thống các viện nghiên cứu
nhà nước ("think tank" quốc doanh) trong lĩnh vực khoa học xã hội
cũng vì những ràng buộc về mặt tư tưởng, vì sợ bị chụp mũ là phản động, lệch
lạc, suy thoái mà nhiều khi không thể nói thật những điều họ suy nghĩ. Như vậy,
thử hỏi một ban của Đảng, phải báo cáo cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư là nơi có
những người tư duy thuộc dạng thủ cựu nhất Việt Nam hiện nay thì làm sao họ dám
nói đúng sự thật, đó là nói nếu họ đủ khả năng để nhận ra đâu là sự thật. Trí
thức phải có môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp, tự do học thuật để tranh luận
thẳng thắn, các ý tưởng có thể cọ sát với nhau thì mới có thể tới gần chân lý
chứ việc mời một vài chuyên gia, dù giỏi để làm việc theo kiểu “hiến kế” cho
các nhà lãnh đạo bảo thủ như mô hình thế này rõ ràng không hiệu quả vì có nghe
hay không phụ thuộc rất lớn vào ý muốn chủ quan của một vài lãnh đạo và liệu ý
kiến tư vấn đó có tốt hay không cũng khó đánh giá vì chả mấy ai biết được do
không được công khai tranh luận. Việc nên làm đầu tiên để có một hệ thống think
tank tốt là cần bỏ ngay Điều 2 trong Quyết định 97/2009/QĐ-TTg do thủ tướng
Dũng ký trong đó quy định khi phản biện thì "không được công bố công khai
với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học công nghệ".
Chính điều khoản có thể nói là ngu dốt này do một người thường tự hào là ngày nào
cũng làm việc với các “trí thức”, người ngay khi mới lên nhậm chức đã ký quyết
định giải thể Ban Nghiên cứu của thủ tướng, ban hành đã làm IDS, "think
tank" tư nhân duy nhất của Việt Nam phải tự giải thể và cũng bịt hết đường
ra đời cũng như góp ý của các "think tank" tư nhân khác.
Như
vậy, có lẽ ý định chính của những người muốn tái lập Ban Kinh tế TW là thông
qua nó, dùng quyền lực của Đảng để can thiệp vào quá trình hoạch định chính
sách và giám sát các tập đoàn là các bầu sữa của chính phủ do thủ tướng Dũng
đứng đầu.
Năng
lực điều hành yếu kém của chính phủ hiện nay là điều không thể phủ nhận nhưng
việc quay lại thời kỳ sử dụng quyền lực của Đảng để can thiệp vào các công việc
thuộc chức năng của chính phủ, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế chỉ tổ làm mọi
việc tệ hơn mà thôi. Chưa nói tới sự chồng chéo về mặt thể chế, lý do cơ bản
nhất là tư duy của các lãnh đạo Đảng thường là bảo thủ, tụt hậu rất xa so với
mặt bằng chung các lãnh đạo trên thế giới (chỉ nói ở ASEAN thôi đã thua lắm
rồi) nên rất không thích hợp cho một quốc gia đang có nhu cầu cấp thiết phải
hiện đại hóa và hội nhập nhanh hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Hai cái sai cộng
lại không thể thành một cái đúng được, đặc biệt là trong trường hợp này. Nếu
điều này xảy ra, nó có nguy cơ càng làm đất nước tụt hậu xa hơn nữa.
Tóm
lại, với việc tái lập hai ban này cũng như một số biện pháp khác đã được tiến
hành, TBT Trọng và những người cùng suy nghĩ với ông cũng có thể có mong muốn
thật lòng là muốn giảm bớt trình trạng tham nhũng đã quá nghiêm trọng và cải
thiện được tình hình kinh tế bi đát hiện nay. Tuy nhiên, rõ ràng cuộc Thập tự
chinh được TBT Trọng khởi xướng để chống lại tham nhũng và suy thoái kinh tế
chắc chắn sẽ thất bại vì nó được dựa trên một nền tảng tư duy hết sức thủ cựu,
đầy ảo tưởng, mang nặng niềm tin tôn giáo hơn là thực tiễn, chủ yếu để đánh lừa
dư luận và tự đánh lừa chính mình. Dùng sự sai lầm về thể chế để đối phó với sự
sai lầm của một người (thủ tướng Dũng) thì chỉ càng làm tình hình xấu
thêm vì con người sai còn có thể thay nhanh chứ thể chế sai khi đã được thiết
lập sẽ mang tính bền vững khó thay đổi hơn nhiều.
3. Con đường gập ghềnh sắp tới của
Việt Nam
Như
trong một bài viết của tác giả vào tháng 11/2012 về kinh tế Việt Nam (Viet-studies,
20/11/2012), tác giả có nhận định rằng triển vọng trung hạn của nền kinh tế
Việt Nam là rất kém vì những lý do chính sau:
-
Hầu hết các cải cách quan trọng cần thiết để giải phóng các nguồn lực tăng
trưởng trong trung và dài hạn liên tục bị trì hoãn mà không được thực thi.
Nhưng bản thân nhiều cải cách này cũng sai ngay từ định hướng nên kết quả rất
khó thành công hay nói đúng hơn là chắc chắn cũng sẽ thất bại.
-
Thể chế chính trị hay nói cụ thể hơn là bộ máy lãnh đạo cấp cao ở Việt Nam hiện
nay đã mất khả năng “tự sửa sai” và lợi ích của số đông cán bộ lãnh đạo không
còn gắn với với lợi ích của đại đa số nhân dân và đất nước nữa.
-
Nhiều chính sách kinh tế trong thời gian kể từ khi thủ tướng Dũng lên nắm quyền
và đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2008 trở lại đây có chất lượng rất kém (ví
dụ điển hình gần đây là chính sách quản lý vàng của NHNN).
Đến
nay, sau 6 tháng, quan điểm của tác giả vẫn không hề thay đổi mà còn được khẳng
định thêm bằng những sự kiện gần đây.
Các
chuyên gia đều thấy các bước cải cách cơ cấu quá chậm hay nói đúng hơn là không
tiến được gì, chỉ thấy nói, nói và nói. Trong kỳ họp Quốc hội đang diễn ra, ông
Đỗ Văn Đương, ĐBQH phải thốt lên: “Tôi thấy báo cáo của Chính phủ rất sơ
sài, không phân tích được nguyên nhân, cũng không thấy rõ ràng giải pháp. Trong
một trang mà tôi đếm có tới 23 lần các từ “đẩy mạnh, tăng cường, tích cực”. Ta
hô hào rất nhiều mà giải pháp cụ thể không được bao nhiêu”. (Tuổi
trẻ, 23/5/2013)
Tại
sao các cải cách cấu trúc rất cần thiết cho tương lai dài hạn của nền kinh tế
mãi bị trì hoãn? Rất nhiều người đã chỉ ra nguồn gốc của nó là do các nhóm lợi
ích muốn duy trì hiện trạng (status quo), chống lại sự thay đổi và tầng lớp
lãnh đạo thiếu đi quyết tâm chính trị để cải cách hoặc còn tệ hơn là chính họ
cũng nằm trong các nhóm lợi ích chống lại sự thay đổi.
Bộ
máy lãnh đạo chóp bu của đất nước (Ban chấp hành TW Đảng) hiện nay đã cho thấy
họ không thực lòng, không đủ tầm trí tuệ và cũng không có khả năng thực hiện
những cải cách mạnh mẽ và cần thiết để đưa đất nước trở lại đường ray tăng
trưởng nhanh và bền vững. Đa số họ hiện nay toan tính về quyền lợi cá nhân và
phe nhóm nhiều hơn là các vấn đề cấp bách và sát sườn của đất nước. Các cuộc
hội nghị của Ban chấp hành TW gần đây diễn ra trong tình hình đất nước suy
thoái trầm trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng lại không tập trung vào
việc tìm ra giải pháp cho những vấn đề đó mà lại chỉ tập trung nhiều nhất vào
vấn đề bầu bán nhân sự, mà nằm đằng sau đó là đấu đá vì lợi ích phe nhóm. Không
có chính sách đột phá nào được đưa ra. Sửa đổi Hiến pháp (phải được Ban chấp
hành TW thông qua trước) được quảng cáo rầm rộ, tốn kém, nhưng cuối cùng chủ
yếu chỉ là sửa câu chữ, nhiều vấn đề còn đi thụt lùi về mặt tư duy (như điều 70
trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi bắt quân đội phải thề trung thành với Đảng). Những
người có trách nhiệm chính trong việc gây ra tình trạng suy thoái nặng nề hiện
nay, cụ thể là thủ tướng Dũng, không hề bị trừng phạt mà lại càng được củng cố
vị thế chính trị sau Hội nghị TW 7… Những biện pháp được đưa ra để đối phó với
tham nhũng và suy thoái kinh tế lại mang tính bảo thủ, đi ngược với thời đại và
cầm chắc là thất bại.
Chỉ
cần nhìn người đứng đầu, ông TBT Trọng, là cũng có thể đánh giá được phần nào
về chất lượng trí tuệ và bản lĩnh của Ban chấp hành TW hiện nay. Ông cũng bức
xúc về tình hình đất nước nhưng những biện pháp ông đưa ra chủ yếu là những
công cụ của quá khứ dựa chủ yếu vào niềm tin giống tín ngưỡng tôn giáo với mục
đích: “có tình đoàn kết, thương yêu đồng chí; vừa có lý, có tình, …theo
phương châm "trị bệnh cứu người", giúp nhau cùng tiến bộ” (QĐND,
15/10/2012) thì làm sao có
thể đối đầu được với những “bầy sâu” tham nhũng đầy mưu mô nham hiểm (theo lời
của ông chủ tịch nước) đang nhung nhúc trên khắp đất nước này?
Về
việc sửa đổi Hiến pháp, TBT Trọng nói: “Lần này chỉ sửa đổi, bổ sung những
vấn đề thực sự cần thiết, đã rõ, được thực tiễn kiểm nghiệm và có sự thống nhất
cao”. (Pháp
luật Tp.HCM, 3/5/2013). Theo cách tư duy này thì đừng mong đất nước có được
một Hiến pháp hiện đại, dân chủ, phù hợp với thời đại. Đã gọi là chính trị mà
cái gì cũng mong có sự “thống nhất cao” thì chỉ là ảo tưởng, đi ngược lại bản
chất con người là luôn đa dạng trong ý kiến và sẽ không bao giờ dám quyết đoán
đưa những giải pháp đột phá cho đất nước được. Rõ ràng TBT Trọng và các đồng sự
trong Ban Chấp hành TW sẵn sàng hi sinh tương lai của đất nước để giữ được sự
thống nhất, đồng thuận trong nội bộ đảng của mình.
Tóm
lại, như đã nói ở bài trước, tác giả cho rằng ngược với câu khẩu hiệu nổi tiếng
của TBT Trường Chinh: “Đổi mới hay là chết” thì câu khẩu hiệu của TBT
Trọng và TW hiện nay là: “Thà chết (dân) chứ (nhất định) không đổi mới”,
“Thà mất nước chứ không đánh mất chế độ”.
Sau
khi đã mất niềm tin ở Ban chấp hành TW thì một số người kỳ vọng nhiều vào kỳ
họp Quốc hội lần này với việc lần đầu tiên có việc bỏ phiếu tín nhiệm cho 49
người được Quốc hội bầu. Bản thân có đại biểu Quốc hội cho rằng việc chạy phiếu
rất khó vì có 500 đại biểu từ nhiều vùng khác nhau[2]. Tuy nhiên,
vấn đề là ở chỗ có 500 đại biểu nhưng đại đa số đều có chung một nguồn
gốc: Đảng Cộng sản (hơn 91%)![3]. Ở đây, tác
giả chỉ xét riêng về trường hợp liệu Quốc hội có bỏ phiếu tín nhiệm ở mức thấp
cho thủ tướng Dũng hay không?
Tác
giả có khảo sát thử danh sách đại biểu Quốc hội của 15 tỉnh và 2 thành phố Hà
Nội và TP.Hồ Chí Minh thì thấy số đại biểu giữ các chức vụ trung, cao cấp trong
Đảng như: phó bí thư tỉnh ủy, thường vụ tỉnh ủy, tỉnh ủy viên, ủy viên TW, ủy
viên BCT, phó bí thư đảng ủy khối… hoặc tệ nhất thì cũng nằm trong huyện ủy…
thường rất cao, địa phương nào cũng phải ở mức 2/3 trở lên. Cụ thể, trong 111
ĐBQH của 15 tỉnh thì số này chiếm khoảng 71 người, trong đó có 18 ủy viên TW, 4
ủy viên Bộ Chính trị. Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh mỗi địa phương có 30 ĐBQH, tổng
cộng là 60 người thì trong đó số đại biểu là đảng viên cỡ trung, cao cấp trở
lên là 40, trong đó có 3 ủy viên TW, 3 ủy viên Bộ Chính trị. Như vậy, tỷ lệ
đảng viên trung, cao cấp trong Quốc hội chiếm khoảng 65% trở lên.
Chắc
chắn, suy nghĩ và cách tư duy của số đảng viên trung, cao cấp này không khác
nhiều với Ban chấp hành TW và họ cũng sẽ bị ảnh hưởng nhiều bởi quyết định Ban
chấp hành TW thông qua các cuộc họp Đảng, các cuộc phổ biến nghị quyết, các mối
quan hệ cá nhân, các cuộc vận động hành lang… Trong lịch sử Quốc hội những năm
gần đây cũng chưa thấy bao giờ Quốc hội bỏ phiếu trái ý với quyết định từ Ban
chấp hành TW cả dù trước đó có thể thảo luận rất sôi nổi với nhiều ý kiến trái
chiều. Cứ nhìn ví dụ rõ ràng về dự án bauxite là thấy. (Trường hợp duy nhất mà
Quốc hội có vẻ có ý kiến độc lập và bỏ phiếu khác với dự kiến là việc không
thông qua dự án xây dựng Đường sắt cao tốc nhưng nên nhớ là TW Đảng chưa cho ý
kiến về dự án này).
Như
vậy, khi Hội nghị TW6 và 7 đã không thể kỷ luật được thủ tướng Dũng và phe
nhóm, thậm chí vị thế của ông này hiện nay còn được nâng cao hơn[4] thì chắc chắn
không thể mong các đại biểu Quốc hội lại bỏ phiếu chống thủ tướng được. Chưa
tính tới các cuộc vận động hành lang cộng với tâm lý cả nể, xuê xoa, đại khái
của người Việt Nam, tác giả tin rằng, tỷ lệ tín nhiệm của thủ tướng sẽ phải từ
70-80% trở lên.
Nếu
có thành viên chính phủ nào bị bỏ phiếu tín nhiệm ở mức thấp thì có lẽ sẽ là
thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình. Như trong một bài
trước của tác giả về thống đốc Bình (Viet-studies, 23/2/2013) , tác giả cho
rằng việc thống đốc Bình đưa NHNN vào cuộc chiến với vàng như hiện nay là một
toan tính sai lầm, thiếu suy nghĩ chín chắn, mang lại rất nhiều tác hại cho
người dân, cho nền kinh tế và có thể làm tiêu tan sự nghiệp chính trị của thống
đốc Bình. NHNN đã đưa ra nhiều lập luận và dẫn chứng để chứng tỏ cách điều hành
thị trường vàng hiện nay là hợp lý (Vneconomy,
8/5/2013) . Tuy nhiên, chỉ xin nói thêm là bất cứ chính sách vĩ mô nào cũng
phải có sự đánh đổi và tất nhiên chính sách về vàng hiện nay của NHNN cũng sẽ
phải có một số kết quả nào đó, vấn đề là liệu cái giá phải trả cho các “kết
quả” đó có quá lớn hay không. Xin nhắc lại là bản thân các lập luận của Marx và
những người theo ông về ưu thế của nền kinh tế kế hoạch tập trung so với kinh
tế thị trường như: không sử dụng lãng phí các nguồn lực vì không tạo ra sản
phẩm thừa, hướng nguồn lực khan hiếm vào những ngành sản xuất có ích cho quá
trình phát triển, triệt tiêu sự bất công vì thặng dư của quá trình sản xuất sẽ
được đưa vào ngân sách rồi tái phân phối cho người lao động (giống lập luận của
NHNN về việc nguồn thu từ giá vàng cao sẽ được đưa vào ngân sách rồi được đầu
tư trở lại cho người dân)… đều hết sức hấp dẫn, xác đáng và khó bị bác bỏ về
mặt lập luận. Tuy nhiên, cuối cùng rồi thì mô hình đó cũng thất bại vì nó dựa
trên quá nhiều giả định không tưởng về bản chất con người và đi ngược lại các
qui luật cơ bản của kinh tế thị trường. Tác giả tin chắc chính sách quản lý
vàng của NHNN hiện nay cũng sẽ không đi ra ngoài sự thất bại này vì nó dựa trên
các công cụ hành chính đi ngược hoàn toàn với thị trường, với kinh nghiệm của
các nước khác trên thế giới… Các quốc gia khác cũng đạt được những “kết quả” mà
NHNN khoe, thậm chí còn tốt hơn nhiều nhưng họ không bắt người dân và nền kinh
tế phải trả một cái giá quá cao như NHNN đang làm ở Việt Nam.
Chưa
kể, chính sách quản lý vàng hiện nay đã đưa NHNN vào cuộc tranh cãi bất tận với
đa số các chuyên gia phản đối chính sách này. Người dân cũng bất bình vì khoảng
cách giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế. Dù thống đốc Bình và NHNN có
biện minh thế nào đi chăng nữa về các chỉ số vĩ mô thì logic của người dân rất
đơn giản: không ai muốn mua hàng giá đắt cả. Nếu giá vàng trong nước cao hơn
một cách quá phi lý với giá vàng thế giới thì họ đều nghĩ họ đang bị bóc lột
bởi những chính sách của NHNN. Họ sẽ không còn tin những gì mà NHNN hứa hẹn vì
chính trước đó thống đốc Bình đã nói giá vàng trong nước cao hơn thế giới
400.000 đồng/lượng là đã có đầu cơ nhưng hiện nay có lúc giá chênh lệch tới gần
7 triệu đồng/lượng! Tất cả những ai có hiểu biết về hoạt động của một ngân hàng
trung ương đều biết rằng một trong những yếu tố then chốt làm nên sự hoạt động
thành công của nó phải là sự khả tín hay nói cách khác là mức độ tin cậy của
người dân vào NHTW. Những tranh cãi qua lại liên miên với các chuyên gia và sự
bất bình của người dân đã làm xói mòn nghiêm trọng uy tín của NHNN và triệt
tiêu niềm tin của người dân với tổ chức này. Chính vì thế tác giả hoàn toàn
đồng ý với TS Phạm Chí Dũng rằng thống đốc Bình phải ra đi (BBC,
14/5/2013) thì NHNN Việt Nam mới phần nào có thể lấy lại niềm tin của người
dân.
Tóm
lại, dù các đại biểu Quốc hội hiện nay trong thảo luận có nhiều phát biểu rất
hăng hái và bức xúc về hiện tình của nền kinh tế đến đâu nhưng với chất lượng
thể chế, chất lượng chính sách, chất lượng quan chức như hiện nay thì tác giả
vẫn chưa thấy đâu là lối thoát của nền kinh tế và tương lai của đất nước còn
rất mờ mịt.
[1] Về nhân sự lãnh
đạo, Ban Bí thư yêu cầu bố trí cán bộ cỡ ủy viên thường vụ tỉnh/thành ủy làm
trưởng ban nội chính. Nơi chưa có điều kiện thì giao vị trí quan trọng này cho
cấp ủy viên thuộc diện được quy hoạch vào thường vụ tỉnh/thành ủy khóa tới. (Vietnamnet,
5/5/2013).
[2] Ủy viên thường trực
Ủy ban Văn hóa - Giáo dục và Thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội, Nguyễn
Thanh Hải nhận định: “Việc cùng lúc tiến hành lấy phiếu đánh giá tín nhiệm với
49 chức danh quan trọng nhất quả thật sẽ ít nhiều gây áp lực đối với các đại
biểu Quốc hội”. Tuy nhiên, bà Hải tin rằng Quốc hội sẽ thực hiện công việc này
một cách thực chất vì “với một tập thể gần 500 người, đại diện cho mọi vùng
miền, mọi thành phần cử tri trong xã hội thì việc “chạy phiếu” là rất khó. (Kienthuc.net.vn,
21/5/2013)
[3] Quốc hội khóa 13 có
42 người ngoài Đảng trúng cử, chiếm tỷ lệ 8,40% (Dân
trí, 3/6/2011)
[4] Thủ tướng Dũng là
một nhà chính trị cực kỳ khôn ngoan và lão luyện, khác hẳn sự gà mờ và non nớt
của TBT Trọng. Hãy nhớ cách thủ tướng xây dựng phe cánh bằng cách thâu tóm
quyền lực kinh tế bằng việc giành quyền bổ nhiệm ban lãnh đạo các tập đoàn kinh
tế, bổ nhiệm cho hàng trăm tướng công an… Thủ tướng Dũng cũng rất giỏi trong
việc xây dựng hình ảnh trước công chúng và lấy lòng giới lãnh đạo quân đội khi
thời gian gần đây liên tục đi thăm các quân chủng phòng không, không quân hay
sang tận Nga để thị sát các tàu ngầm mà Việt Nam sắp mua. Hiện nay nhiều người
có nói rằng nếu có thay thủ tướng Dũng cũng chả có ai xứng đáng để đưa lên.
Theo tác giả đây cũng chính là cách để thủ tướng Dũng duy trì quyền lực của
mình. Tức là khác với những người tiền nhiệm như ông Võ Văn Kiệt và Phan Văn
Khải đã có ý thức bồi dưỡng cho những cán bộ kế cận thay thế mình thì thủ tướng
Dũng đã cố tình sử dụng những người có năng lực kém, hay phát ngôn những câu
trời ơi làm người dân thất vọng (như PTT Nhân hay bộ trưởng Thăng là ví dụ điển
hình) để càng làm nổi bật mình và không tạo ra đối thủ chính trị trong tương
lai.
Tác giả gửi cho viet-studies
ngày 25-5-13
CÙNG TÁC GIẢ :
Thủ
tướng Dũng và nền kinh tế thị trường “định hướng quyết liệt” (viet-studies
11-3-13)
Thống
đốc Bình có mắc chứng hoang tưởng vĩ cuồng? (viet-studies 24-2-13)
Vài
đánh giá về triển vọng trung hạn của kinh tế Việt Nam (viet-studies
21-11-12)
No comments:
Post a Comment