Tưởng Năng Tiến (pro&contra)
Tháng
Năm 21, 2013
Tổ
quốc tôi vẫn chưa là vô phúc
May
còn em khổ nạn gánh lên đồi
“Phùm
Gi cách buôn Nu khoảng sáu cây số thôi nhưng có tới hai kiểu đường. Hai cây số
đầu là đường nhựa láng o, khoảng bốn cây số sau thì lởm chởm đá, ổ gà và mịt mù
bụi bặm.
Buôn
nằm cạnh quốc lộ 25, bên cạnh con đường rách nát y như bản thân mình vậy. Đi
ngang qua nhìn vào buôn, sẽ thấy những ngôi nhà sàn nhỏ bé đứng cạnh nhau, rúm
ró, buồn bã và nín nhịn.” (Amai B’lan. Nước mắt của rừng. San Jose: Nhân
Ảnh, 2013)
“Rúm
ró” và “nín nhịn” chắc chắn không phải là đường lối kiến trúc đặc trưng của
miền sơn cước. “Những ngôi nhà buồn bã nhỏ bé” nằm “bên cạnh con đường lởm chởm
đá, ổ gà và mịt mù bụi bặm” (nói đúng ra) là hình ảnh quen thuộc, có thể nhìn
thấy khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam – bất kể là ở miền xuôi hay mạn ngược.
(Ảnh: Đặng
Đại, Tuổi
Trẻ Online)
http://www.procontra.asia/wp-content/uploads/2013/05/Ảnh-Đặng-Đại-Tuổi-Trẻ.png
Hệ
lụy của cái nghèo – nghèo/ nàn, nghèo/ khó, nghèo/ khổ, nghèo/ hèn, nghèo/ đói,
nghèo/ túng, nghèo/ yếu … – đã thấm đẫm trong cách ăn ở (cũng như ăn nói) của
người dân Việt – kể cả khi họ đã có dịp đứng diễn thuyết giữa một kinh
thành hoa lệ:
“Trong tâm trí của
chúng tôi, Xuân Diệu là một trong những nhà thơ thông thái, nhà thơ của những
kiến thức uyên bác. Từ 1946, ông đã có mặt trong đoàn đại biểu Quốc hội Việt
Nam qua Pháp. Nhưng do chiến tranh kéo dài, mãi 1981, tức là 35 năm sau, trong khuôn
khổ một số quan hệ được nối lại với nước Pháp, người ta mới lại thấy ông trở
lại thăm cái xứ sở hoa lệ ấy.
Ở đó, như báo chí
đưa tin, ông có dịp diễn giảng trước các sinh viên đại học Paris về ảnh hưởng
văn hoá phương Tây trong văn học Việt Nam, và về những nhà thơ cổ điển Việt Nam
có nhiều ảnh hưởng trong đời sống. Nghĩa là, ông đã diễn thuyết toàn những vấn
đề cơ bản cả.
Thuận miệng và rất
hồn nhiên, tôi hỏi Xuân Diệu khi gặp ông đi Pháp trở về:
- Thế anh có dịp gặp
Aragon hay những nhà thơ Pháp nổi tiếng, mà các anh vẫn nói với bọn này…
Câu trả lời của Xuân
Diệu là hoàn toàn bất ngờ với tôi:
- Em ơi! Đâu người
ta có gặp những người như mình. Xuân Diệu đến Pháp, chỉ để nói chuyện thơ với
một số bạn Việt kiều và nhà chuyên môn thôi.
Bấy giờ tôi mới sững
ra. Sự biết thân biết phận, thường trực ở một người như Xuân Diệu, như một thứ
bản năng thứ hai.
Trong chừng mực nào
đó, phải nhận sự nhẫn nhịn ở Xuân Diệu là một cái gì đáng quý. Nó không chỉ là
khiêm tốn, là biết điều. Sâu sắc hơn thế, nó chứng tỏ một nhận thức chính xác
về tình thế người làm văn nghệ ở một nước mà đời sống vật chất còn nhiều khốn
khó. Nó giúp cho người nghệ sĩ tránh khỏi những hoang tưởng bốc đồng quá đáng,
làm phiền mọi người và làm phiền chính mình. Có điều nhiều khi Xuân Diệu đã đẩy
nó đi quá xa, biến thành một cách sống cầu an, chiều đời, tự hạ thấp nhu cầu
nghệ thuật và chất lượng sáng tác của mình một cách đáng tiếc.”
(Vương
Trí Nhàn. Cây bút, đời người: Xuân
Diệu, sống để mài sắt nên kim. Sài Gòn: Phương Nam, 2002).
Ở
một mức độ ít “đáng tiếc” hơn, người ta vẫn thường gặp cái thái độ “nín nhịn”
(cùng với lối sống “rúm ró” tương tự) nơi rất nhiều người khác:
“Mọi việc không như
ý muốn! Đời thật lắm chuyện! Nhưng trải qua hai cuộc chiến tranh mình còn được
sống được làm thơ, còn may mắn hơn khối người khác thế là được rồi. Có vẻ như
đấy cũng chính là những ý nghĩ mang tính cách tự an ủi thường đến với Tế Hanh
sau khi đã chất lên vai một cuộc sống trong ba phần tư thế kỷ!” (Sđd, tr. 209)
Đến
như Nguyễn Tuân rồi cũng phải “nhập
vai” nhẫn nhịn để có thể “nín thở qua sông” thôi:
“Từ
sau 1945, với thiên lương và tinh thần yêu nước sẵn có, Nguyễn Tuân lại nhanh
chóng phục thiện, để đứng vào hàng ngũ Cách mạng. Con người chủ yếu ở ông, từ
nay, là con người cán bộ, con người chiến sĩ, nghĩa là thành viên của một tập
thể có kỷ luật, tập thể ấy phấn đấu cho một lý tưởng nhất định, nên mỗi thành
viên trong đó phải làm tất cả để đóng góp cho sự nghiệp chung.” (Sđd, tr.
215)
Điều được nhà phê
bình văn học Vương Trí Nhàn mô tả bằng những mỹ từ như “thiên lương,” “lý
tưởng,”và “tinh thần yêu nước,” qua đoạn văn thượng dẫn – tiếc thay – đã không
được chia sẻ bởi một người cầm bút khác, nhà văn Vũ Thư Hiên:
“Trí
thức Việt Nam thời ấy ngoan ngoãn lắm, dễ bảo lắm… Không ở đâu trong các nước xã hội chủ nghĩa có được
một tầng lớp trí thức ngoan như thế. Trí thức ở các nước Ba Lan, Hungari, Tiệp
Khắc, Liên Xô, kể cả trí thức Trung Quốc cứng đầu hơn nhiều.
Đảng tập hợp họ, bảo
họ chỉnh huấn để củng cố và nâng cao lập trường thì họ thành tín như những cậu
học trò nhỏ ngồi nghe cán bộ Đảng dạy bảo… Đảng bảo phải hạ phóng, ba cùng, thế
là họ bỏ bàn giấy, phòng thí nghiệm, giảng đường, ba lô lên vai xuống nông
thôn, chịu cực, chịu khổ, ba cùng với nông dân, ngày ngày tu dưỡng hòng có được
những đức tính của người dân cày chẳng cần học hành cũng có…
Đảng hô hào phóng
tay phát động quần chúng làm Cải cách Ruộng đất thì họ lăn lộn ngày đêm nơi bùn
lầy nước đọng ‘thăm nghèo hỏi khổ, bắt rễ xâu chuỗi’. Cùng với đội với đoàn họ
mẫn cán thực hiện định mức thành phần, tìm ra bằng được, cho đủ số kẻ thù theo
chỉ tiêu của Đảng đặt ra, hăng hái lôi bọn cường hào, ác bá ra đấu tố, ra pháp
trường.
Đến khi Đảng ngượng
ngùng tuyên bố sửa sai thì họ mới ngã ngửa ra rằng họ, những trí thức, lẽ ra
phải lấy nhân ái làm đầu, thì đã theo Đảng nhúng tay vào máu. Do quá tin Đảng
họ nhắm mắt tuân theo, không suy nghĩ, ai ngờ cùng với chủ thuyết lấy đấu tranh
giai cấp làm động lực tiến hóa, Đảng đã gây ra vô vàn bi kịch trong đời sống
một dân tộc hiền hòa.”
(Vũ Thư Hiên. Đêm
giữa ban ngày, in lần thứ hai. Virginia: Tiếng Quê Hương, 2008).
Giá
mà dân tộc Việt cứ “hiền hoà” mãi như thế thì đỡ (mệt) biết chừng nào mà kể.
Toàn thể đồng bào sẽ vẫn tiếp tục được sống trong Độc lập – Tự do – Hạnh phúc,
vẫn nô nức bước theo con đường mà Bác (kính yêu) đã chọn. Rồi cứ năm hết, tết
đến mọi người lại háo hức mừng Đảng/mừng Xuân – những mùa xuân trên thành
phố Hồ Chí Minh quang vinh (cũng như giữa lòng Hà Nội, thủ đô mến yêu
của ta) ôi đẹp biết bao, biết mấy tự hào…
Điều
đáng tiếc là người Việt, với thời gian, mỗi lúc một bớt “hiền hoà” đi thấy rõ.
Họ thôi “nín nhịn” tự lúc nào vậy, Trời? Muốn biết chính xác chắc cũng hơi mất
công nên xin tạm lấy một mốc điểm (gần gần) theo blogger Huỳnh
Ngọc Chênh, cho nó khoẻ:
“Năm
1988, tiến sĩ Hà Sĩ Phu viết khảo luận ‘Dắt taynhau đi dưới tấm biển chỉ
đường của trí tuệ’ được bạn bè phổ biến ra dưới dạng bản photocopy rồi
chuyền tay nhau đọc. Bài biên khảo của ông vạch ra những điểm sai trái trong lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lenin đã đón nhận sự đồng tình của giới học thuật và gây
ra tiếng vang lớn trong dư luận thời ấy…
Ba
blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải hợp với
nhau thành Câu lạc bộ Nhà
báo Tự do viết bài trên blog chống hành vi xâm lấn biển và ức hiếp ngư dân
Việt Nam của nhà cầm quyền Bắc Kinh, giúp đỡ dân oan và người cô thế, phê phán
các hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên công quyền…
Nhà
báo Phạm Chí Dũng đồng thời là cán bộ của văn phòng Thành ủy TPHCM, từ
năm 2011 đã viết nhiều bài báo xuất sắc phân tích tình hình kinh tế chính trị
xã hội đăng trên các trang web trong và ngoài nước được dư luận đánh giá cao…
Sinh
viên Nguyễn Phương Uyên không viết blog, em chỉ viết những câu ngắn biểu lộ
tình cảm của em trước hành vi xâm lấn biển đảo Việt Nam của nhà cầm quyền Trung
cộng trên các tờ giấy rồi mang đi phổ biến liền bị an ninh bắt cóc, tống giam
trái phép… “
Theo
theo BBC,
nghe được vào hôm 16 tháng 5 năm 2013 – cùng với sinh viên Đinh Nguyên Kha – Nguyễn
Phương Uyên đã bị kết án (“tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam”) và cả hai sẽ bị giam cầm hàng chục năm tù. Bản án nặng nề này,
cùng với thái thái độ bình thản và điềm nhiên trước toà của hai nhân vật trẻ
tuổi kể trên, đã khiến cho nhiều người cảm khái:
Bắt
thì bắt, không sợ.
Tù thì tù, đã sao.
Tôi nói vì yêu nước,
Yêu quốc dân, đồng bào
Tù thì tù, đã sao.
Tôi nói vì yêu nước,
Yêu quốc dân, đồng bào
Ôi
ước gì Tuổi Trẻ Yêu Nước Việt Nam đều được như hai cháu!
Để
gìn giữ giang sơn gấm vóc của Hùng Vương đã trải bốn ngàn năm.
Dù
bất kỳ ai, với cái nhìn từng trải, chỉ cần thấy hình ảnh sáng sủa này của các
con ở trong tù là bác hiểu dân khí đã đổi mạnh. Ngược lại nhìn vẻ ủ dột của các
quan phụ mẫu đang quyết định đời các con trong tù, thì bác hiểu vận nước đã và
sẽ đi đến đâu không lâu.”
Chúc
các con bình an và chờ ngày ấy.
(Ảnh:
Vẻ bình thản và vững vàng của Đinh Nguyên Kha trước tòa ngày 16/5/2013 về tội
giống với Phương Uyên, với 10 năm tù và 3 năm quản thúc quản chế sau tù. Nguồn
ảnh và ghi chú từ bshohai.blogspot.com)
Thực
sự thì “dân khí đã thay đổi mạnh” kể từ thời Nguyễn Xuân Tụ (Hà Sĩ Phu) chứ chả
phải đợi đến Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải, hay thế hệ của Nguyễn Phương Uyên. Điều
này ai cũng thấy, trừ những người đang cầm quyền ở Việt Nam. Bởi vậy, họ vẫn cứ
tiếp tục và (thản nhiên) thêm dầu vào lửa!
©
Tưởng Năng Tiến & pro&contra
No comments:
Post a Comment