Wednesday,
January 16, 2013 at 8:43pm
Lời tác giả:
Bài trên
BBC phải rút gọn mất một nửa để vừa giới hạn số chữ.
Đây là bản đầy
đủ, bản-nhiều-chuyện: Đã ko nói thì thôi, đã nói thì tranh thủ nói cho hết ý
:-)
Hôm nay thầy
vừa gửi email bảo "I suggest that popular regard for 'the law' still
remains poorly developed in VN" (Tôi nghĩ là sự chú ý của quần chúng về
'luật pháp' vẫn chưa phát triển lắm ở Việt Nam).
Mình trả lời
lại: "Em tiếc là em đồng ý với thầy. Mọi người chú ý đến các vấn đề biển
đảo nhiều hơn là chuyện đang sửa hiến pháp. Nhưng em vẫn nghĩ, ngay cả trong
chuyện tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông, tương quan lực lượng giữa Trung Quốc và
Việt Nam chỉ có hi vọng thay đổi khi Việt Nam có dân chủ và phát triển nội lực
cho mạnh mẽ hơn."
Mà một đất nước
thiếu vắng hệ thống pháp luật chuẩn mực, thiếu vắng tinh thần thượng tôn pháp
luật, thì chỉ có loạn, chứ lấy đâu ra "công bằng dân chủ," "dân
giàu nước mạnh" mà làm eo với Tàu?!
Mình viết những
bài viết về pháp luật cũng không nằm ngoài hi vọng nhiều người sẽ quan tâm hơn
tới sự cần thiết cần có nền pháp quyền/thượng tôn pháp luật (rule of law): tiềm
năng của luật hiến pháp trong việc bảo vệ quyền của người dân trước quyền lực nhà
nước, khai phóng tiềm lực của xã hội (tự do), để theo đuổi những cải cách cần
thiết - trong kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục - một cách hữu hiệu.
---
Thay đổi Hiến
pháp và nhu cầu của xã hội
Nhìn vào những
thảo luận nhiều chiều xung quanh chuyện sửa Hiến pháp đang diễn ra, có thể thấy
sự cách biệt giữa ý thức hệ chính thống và dư luận tự do trong xã hội.
Một số người
nhìn vào cách Việt Nam đang sửa Hiến pháp mà thấy nản.
Những cuộc tổng
kết trong nội bộ bộ máy nhà nước.
Một hội đồng
soạn thảo Hiến pháp gồm những chính trị gia chóp bu - luật gia chỉ là trợ lý.
Một quy trình
soạn thảo khép kín.
Khi bản dự thảo
được công bố, nhà cầm quyền chỉ nói đến "góp ý," chứ không đả động gì
đến trưng cầu dân ý để nhân dân phê chuẩn bản dự thảo, một thủ tục còn được gọi
là phúc quyết hiến pháp.
Thế nhưng trong
thời gian qua, phúc quyết hiến pháp là một trong những đòi hỏi mạnh mẽ nhất
trong các ý kiến sửa đổi Hiến pháp. Nhiều người cho rằng cần trở lại với quy
trình tu chính hiến pháp dân chủ của Hiến pháp 1946.
Một Hiến pháp
dân chủ của toàn dân khác với hiến pháp áp đặt ở chỗ nó được nhân dân phúc
quyết thông qua. Như nhiều trí thức trong nước đã lên tiếng, thiếu phúc quyết
Hiến pháp, Hiến pháp không còn là "khế ước xã hội" giữa những con
người tự do. Thiếu phúc quyết, Hiến pháp đơn giản không còn là Hiến pháp.
Như vậy, chưa
nói gì đến nội dung, chỉ riêng thủ tục sửa đổi Hiến pháp đã không tạo được đồng
thuận ngay trong chính giới tinh hoa trong nước.
Xét về nội
dung, một số người nhìn vào cách hành văn dài dòng theo lối cũ trong lời mở
đầu, khẳng định kiên định "ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh," vào điều 4 với Đảng cộng sản "là lực lượng lãnh đạo nhà
nước và xã hội" là đã không muốn đọc tiếp, đừng nói đến chuyện góp ý.
Nhưng công bằng
mà nói, cũng có một số sửa đổi - tuy nhỏ nhưng phản ảnh và tiếp thu phần nào
những ý kiến tiến bộ của giới trí thức trong thời gian qua: thêm từ "kiểm
soát" vào điều 2 - tuy vẫn khẳng định quyền lực nhà nước là "thống
nhất" (tức từ chối khái niệm phân quyền); thêm hội đồng bảo hiến - dù đó
chỉ là bảo hiến "cấp thấp" do Quốc hội thành lập (chương X); bỏ các
điều khoản về "Toà án địa phương" - có lẽ để làm tiền đề cho cải cách
hệ thống toà án theo cấp xét xử chứ không theo cấp chính quyền địa phương
(Chương VIII); thêm điều khoản về quyền "được sống trong môi trường trong
lành" (điều 46 mới) và trách nhiệm bảo vệ môi trường (điều 68 mới) ; sửa
điều 63 (cũ) về bình đẳng giới, bỏ đi những điều khoản gia trưởng, thêm điều
khoản "nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử về giới."
Tóm lại, nhìn
vào bản dự thảo, người bi quan thấy dòng sông vẫn còn đỏ - chủ nghĩa Mác-Lênin,
sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản dường như vẫn là nền tảng.
Người lạc quan
nghĩ dòng sông bắt đầu pha màu xanh từ những tư tưởng cấp tiến được tiếp thu
một cách manh mún.
Những cải cách
pháp luật hỗn dung, tư tưởng mới pha trộn những tư tưởng cũ, kể cả khi chúng
chẳng ăn nhập với nhau, lâu nay vẫn diễn ra ở Việt Nam.
Chúng phản ảnh
những thay đổi trong môi trường tri thức và xã hội, và thái độ miễn cưỡng cải
cách của đảng cầm quyền để đối phó với những đòi hỏi chính đáng trong xã hội.
Vấn đề của việc
sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam không phải là do giới tinh hoa không nhận thức
được thế nào là một bản Hiến pháp dân chủ. Trong thời gian qua, quan niệm về
Hiến pháp ở Việt Nam đã thay đổi nhiều: từ quan niệm Hiến pháp như một văn bản
chính sách của đảng cầm quyền áp đặt, đến việc nhìn nhận Hiến pháp một cách
thông thoáng theo kiểu dân chủ tự do phương Tây - Hiến pháp là khế ước xã hội
do nhân dân đồng thuận thông qua, bảo đảm quyền tự do của nhân dân và hạn chế
quyền lực nhà nước.
Việt Nam không
nhiều, nhưng cũng không thiếu những luật gia, trí thức được đào tạo bài bản ở
các nước dân chủ, những người đã mang những tư tưởng cấp tiến vào môi trường
tri thức trong nước.
Cái Việt Nam
thiếu là một không gian chính trị tự do để những luồng tư tưởng hợp thời đại có
cơ hội phát triển sâu rộng và nhận được sự ủng hộ đông đảo của quần chúng.
Từ vài năm trở
lại đây, một số quyền trong Hiến pháp được người dân viện dẫn để làm cơ sở pháp
lý cho các hoạt động chính trị, xã hội, từ việc gửi kiến nghị, đòi sở hữu đất,
sở hữu xe máy, nhập cư vào thành phố, cho đến việc biểu tình, ra báo mạng, lập
tổ chức chính trị.
Nhưng ngay cả
việc viện dẫn Hiến pháp không giúp họ lấy lại đất đai, biến những kiến nghị
thành chính sách và luật pháp, hay bảo vệ họ khỏi trấn áp và tù tội khi biểu
tình hay lập tổ chức chính trị.
Cái Việt Nam
thiếu không phải chỉ là một bản Hiến pháp dân chủ chuẩn mực, mà chính là một cơ
chế chính trị dân chủ biết đáp ứng nguyện vọng của đa số nhân dân.
Giả sử nhà cầm
quyền buộc phải nhượng bộ, ghi vào Hiến pháp những điều khoản dân quyền tiến
bộ, lấy gì đảm bảo những điều khoản đó sẽ được thi hành, khi trong thực tế cạnh
tranh chính trị không bình đẳng, các quyền tự do chính trị cơ bản bị hạn chế và
xã hội dân sự bị kiểm soát chặt chẽ?
Nhìn vào lịch
sử hiến pháp của các nước, người ta thấy những thay đổi Hiến pháp quan trọng
không phải là tiền đề, mà là hệ quả của những phong trào cấp tiến của xã hội
dân sự.
Ở Mỹ, phải trải
qua cả trăm năm, qua chia rẽ, thậm chí nội chiến, chế độ nô lệ mới được bãi bỏ.
Phải thêm trăm năm nữa, người Mỹ gốc châu Phi và phụ nữ mới được quyền bỏ
phiếu. Các tu chính quan trọng trong Hiến pháp Hoa kỳ hay trong án lệ của Tòa
án Tối cao Mỹ ở thế kỷ 20 là hệ quả của phong trào Dân quyền và nữ quyền qua
nhiều thế hệ.
Ngay cả khi
Hiến pháp không được tu chính, Tòa án tối cao Mỹ cũng đã nhiều lần tự thay đổi
án lệ của chính mình để đáp ứng đòi hỏi mới của xã hội. Chẳng hạn, Tòa án Tối
cao Mỹ đóng vai trò quyết định trong việc bãi bỏ phân biệt chủng tộc trong
trường học.
Ở Pháp, dù nổi
tiếng với Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1789, phải đến năm 1958, một Hội
đồng Hiến pháp mới được lập ra, với thẩm quyền hạn chế - xem xét tính hợp hiến
về mặt thủ tục lập pháp của các dự án luật sau khi chúng được Quốc hội Pháp
thông qua và trước khi Tổng thống ký ban hành dự luật đó. Phải đến những năm
1970, Hội đồng Hiến pháp Pháp bắt đầu xem xét tính hợp hiến của các dự luật căn
cứ vào các điều khoản nhân quyền và tự do cá nhân trong Hiến pháp. Và gần đây,
năm 2008, một tu chính Hiến pháp cho phép các tòa án tối cao yêu cầu Hội đồng
Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của các văn bản luật khi chúng được áp dụng vào
cuộc sống. Tức là vấn đề bảo hiến không chỉ còn là đặc quyền của các chính trị
gia trước khi văn bản luật được thông qua, mà người dân bình thường có thể đưa
các vấn đề hiến pháp ra trước Hội đồng Hiến pháp.
Những phát
triển đó, theo giáo sư Martin Rogoff, là kết quả của nhu cầu cần có một cơ chế
làm mới Hiến pháp qua các giải thích Hiến pháp, thay vì liên tục tu chính Hiến
pháp, để đáp ứng các nhu cầu chính trị và xã hội mới, như ảnh hưởng của luật
pháp của Liên minh châu Âu, các đòi hỏi bình đẳng của một xã hội Pháp ngày càng
đa dạng về sắc tộc và tôn giáo, hay sự xuất hiện của các hệ giá trị mới về dân
chủ, bình đẳng giới, tự do kinh tế, bảo vệ môi trường.
Những phát
triển Hiến pháp ở các nước dân chủ phương Tây đi theo chiều hướng ngày càng mở
rộng quyền bình đẳng và tự do đến nhiều giai tầng trong xã hội hơn.
Ở Việt Nam,
phát triển Hiến pháp có vẻ đi theo xu hướng ngược lại: từ bản Hiến pháp tương
đối dân chủ năm 1946, đến những bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa áp đặt, thiếu
chính danh năm 1959, 1980 - thay đổi chế độ chính trị, thay đổi tên nước mà
không được nhân dân phúc quyết.
Nhưng trên thực
tế, cho dù Hiến pháp 1959 hay Hiến pháp 1980 có quy định kinh tế tập trung,
chuyện nhân dân xé rào làm kinh tế tư nhân dẫn đến đổi mới kinh tế năm 1986 đã
là điều bây giờ ở Việt Nam ai cũng biết. Xã hội luôn có không gian tự do của
chính nó, dù hạn hẹp, mà chính trị trước sau gì cũng phải thừa nhận.
Hiến pháp 1992
và bản Hiến pháp sửa đổi năm 2001 đã bắt đầu có tín hiệu cởi mở hơn, vì những
biến chuyển trong kinh tế và bang giao quốc tế khiến nhà cầm quyền không có lựa
chọn nào khác.
Ở Việt Nam, cái
vỏ bọc chủ nghĩa xã hội và cơ chế dân chủ tập trung không ngăn cản được sự trỗi
dậy của một xã hội dân sự đang đòi hỏi những tự do thực tại của họ được công
nhận trong Hiến pháp và pháp luật.
Những thay đổi
tiến bộ đã nêu ở trên - thêm quy định kiểm soát quyền lực, Hội đồng bảo hiến,
quyền môi trường, quyền bình đẳng giới - không phải tự nhiên xuất hiện trong
bản dự thảo.
Dự án Bô-xít
Việt Nam từ năm 2008 đã làm dấy lên trong dư luận những đòi hỏi mạnh mẽ về
quyền sống trong một môi trường trong lành.
Các nhóm cổ vũ
nữ quyền và các nhà tài trợ quốc tế từ hơn một thập kỷ trở lại đây đã vận động
để khái niệm bình đẳng giới được chấp nhận trong đời sống chính trị xã hội,
phần nào thay thế quan niệm "giải phóng phụ nữ" kiểu gia trưởng xã
hội chủ nghĩa.
Hội đồng bảo
hiến, dù có vẻ hình thức, có mặt trong bản dự thảo Hiến pháp lần này, cũng là
vì giới trí thức và dư luận biết việc thực thi và bảo vệ các quyền Hiến định
quan trọng hơn việc các quyền này chỉ được ghi trên giấy. Các cuộc biểu tình
chống Trung Quốc bị đàn áp, những kiến nghị không được lắng nghe, những bắt bớ
nhà bất đồng chính kiến bất kể quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội được ghi
trong Hiến pháp, khiến người ta hiểu rằng một cơ chế bảo hiến là cần thiết (cơ
chế bảo hiến đó có hiệu quả không trong chế độ chính trị một đảng, lại là
chuyện khác).
Các sửa đổi về
ngành Toà án cũng phản ánh đòi hỏi của giới luật gia về việc tăng cường tính
độc lập của các Toà án khỏi sự chi phối của chính quyền địa phương và trung
ương trong quá trình xét xử.
Thay đổi trong
chính trị và pháp luật theo sau những thay đổi không đảo ngược được của đời
sống xã hội, khi đời sống kinh tế thay đổi, khi tri thức phát triển phóng
khoáng hơn, khi những bất công xã hội càng ngày càng lộ rõ đến mức không thể
chấp nhận được nữa.
Những gì đang
diễn ra trong lần sửa đổi Hiến pháp lần này nên được đánh giá trong bối cảnh
của sự chuyển mình không ngăn cản được của xã hội, của sự bối rối của nhà cầm
quyền - đáp ứng cải cách cũng dở, mà cố chấp bảo vệ độc quyền và đặc quyền cũng
chẳng xong.
Hiến pháp là
nơi giao thoa giữa chính trị và pháp luật. Sửa Hiến pháp không chỉ phụ thuộc
vào lý trí, mà còn phụ thuộc vào tương quan lực lượng chính trị.
Chỉ khi nhân
dân ý thức được các quyền chính trị của họ, được vai trò quyền làm chủ của họ,
và cứ thực thi vai trò ấy, quyền lợi ấy, thì giới lãnh đạo chẳng có lựa chọn
nào khác ngoài việc thừa nhận và cam kết tôn trọng các quyền ấy qua Hiến pháp
và pháp luật.
Ý nghĩa của
việc góp ý Hiến pháp cũng là ở chỗ đó. Góp ý Hiến pháp không phải là thừa nhận
quyền lực của đảng độc quyền lãnh đạo và bản dự thảo Hiến pháp giới lãnh đạo đề
ra.
Qua góp ý Hiến
pháp và phúc quyết Hiến pháp, nhân dân thực thi và khẳng định quyền làm chủ.
Trong lần sửa
đổi Hiến pháp này, nếu giới cầm quyền không lắng nghe các góp ý, không tổ chức
trưng cầu dân ý để nhân dân phê chuẩn Hiến pháp, thì chính họ - đảng cầm quyền,
sẽ bỏ lỡ cơ hội thiết lập tính chính danh cho quyền lực chính trị của họ và cho
bản Hiến pháp được sửa đổi.
Bên cạnh đó,
điều mấu chốt không phải bản dự thảo Hiến pháp nói gì, mà là nhân dân và giới
tinh hoa đang lên tiếng đòi hỏi những gì để khẳng định quyền làm chủ của chính
họ, để Hiến pháp thực sự trở thành một khế ước xã hội, một Hiến pháp dân chủ do
nhân dân bàn thảo và phúc quyết thông qua để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Nguyễn Thị
Hường, Nghiên cứu sinh khoa luật Đại học Indiana, Bloomington, Hoa Kỳ, với sự
cộng tác của Luật sư Trần Minh Quốc, Boston, Hoa Kỳ và Luật sư Vũ Đức Khanh,
Ottawa, Canada.
----------------------------------------------
Bài
trên BBC :
No comments:
Post a Comment