Được đăng ngày Thứ hai, 28 Tháng 1 2013 00:18
Tháng 01-2013. Bạn tôi vừa về thăm nhà
trong một tháng. Anh ta về Việt Nam rất thường xuyên. Việt kiều tốt, nhiều lần
được tuyên dương, hộ chiếu năm năm. Lần này gặp tôi anh nói một cách sôi nổi: "Việt
Nam đã chín muồi cho một cuộc thay đổi chế độ rồi". Kế tiếp là một
tường thuật chi tiết và chính xác về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội. Anh
là một chuyên gia cao cấp và cũng có kiến thức cao về chính trị. Anh rất quả
quyết, một trong những lý do là: "Trong suốt một tháng tao không thấy
ai không chửi Nguyễn Tấn Dũng". Nhưng khi tôi hỏi: "Liệu có chín muồi đến độ dân chủ
có thể thắng mà không cần một tổ chức dân chủ mạnh không?" thì anh
như bị mất hứng, vì câu hỏi gợi lại nhiều cuộc thảo luận giữa chúng tôi trước
đây.
Sự kiện quan trọng
nhất trong năm 2012 là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chết (1). Chết thực sự dù chưa
khai tử. Đó đã là năm mà những cố gắng phi thường
đã được đổ ra để chấn chỉnh và cứu đảng, với kết quả là một con số không. Hội
nghị trung ương 6, và kỳ họp quốc hội ngay sau đó, đã chứng tỏ một cách hùng
hồn rằng căn bệnh của ĐCSVN không có thuốc chữa.
Đối với đời sống dân chúng sự kiện quan
trọng nhất là kinh tế sa sút. Sa sút rất nặng dù chính quyền vẫn còn biện luận
lúng túng đàng sau những con số thống kê giả tạo. Đà suy sụp là chắc chắn và
không thể đảo ngược được vì chế độ CSVN đã bị các nước dân chủ và các nhà đầu
tư nhìn như một chế độ côn đồ trong khi kinh tế Việt Nam quá phụ thuộc ngoại
thương. Năm 2013 rất có thể sẽ là năm mà kinh tế phá sản, kéo theo những thảm
kịch tương tự như trong thập niên 1980. Khác ở chỗ quần chúng Việt Nam ngày nay
có sức mạnh hơn, hiểu biết hơn và ít sợ hơn. Bạo loạn có thể bùng nổ.
Đối với những người dân chủ năm 2012 đã là
năm gia tăng đàn áp. Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) làm gì mà bị xử 12 năm tù sau
khi đã ở tù ba năm? Điếu Cày viết rất ít và những gì anh viết ra cũng không
thách đố chính quyền. Điếu Cày và Tạ
Phong Tần bị trừng phạt nặng vì họ bị coi là đầu tàu của một tổ chức đang thái
nghén: Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, trong khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
tuyên bố là nhất định không để "nhen nhúm" những tổ chức đối lập. Một tội nặng khác của Điếu Cày và Tạ Phong Tần là họ đã xuất hiện như những người dẫn đầu
các cuộc biểu tình chống Trung Quốc.
Năm 2012 cũng đã
là năm mà chính quyền CSVN khẳng định đứng hẳn về phía Trung Quốc. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, một trong vài người nhiều
quyền lực nhất hiện nay, tuyên bố thẳng thừng: "Việt Nam
không còn bất cứ băn khoăn gì khi hợp tác với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực ".
Không còn bất cứ băn khoăn nào dù Trung
Quốc cắt dây cáp tầu thăm dò địa chấn của Việt Nam ngay trong hải phận Việt
Nam, tiếp tục khủng bố ngư dân Việt Nam và cho in hình Hoàng sa, Trường Sa và
cái lưỡi bò lên hộ chiếu. Không còn băn
khoăn vì một lý do giản dị là không được quyền băn khoăn nữa, họ đã chấp nhận
phục tùng Trung Quốc vô điều kiện. Chọn lựa ô nhục và tai hại này dĩ nhiên
là nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận và có hậu quả là đổ thêm dầu vào lửa
phẫn nộ của nhân dân.
Tóm lại nhân dân phẫn nộ và không còn sợ như trước nữa
trong khi chính quyền đã quyết định đàn áp thẳng tay. Xung đột chính quyền – nhân dân đã đi vào logic leo
thang trong khi chính quyền cộng sản đã rạn nứt dưới trọng lượng của những xung
đột nội bộ. Bạn tôi quả là có lý do để nghĩ rằng Việt Nam đã chín muồi cho cuộc
cách mạng dân chủ.
Câu hỏi của tôi làm anh khựng lại bởi vì
chúng tôi đã từng là chí hữu. Cách đây ba mươi năm chúng tôi đã cùng tham gia
thành lập một nhóm chính trị sau này mang tên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Trừ
hai chuyên gia mà anh bạn là một, tất cả đều là những cựu viên chức cao cấp của
chế độ Việt Nam Công Hòa đã suy nghĩ rất nhiều trong tù sau ngày 30-4-1975.
Đồng thuận đầu tiên của chúng tôi là nhất định phải thay đổi chế độ thì đất nước
mới có thể tồn tại và vươn lên, nhưng cũng không thể có vấn đề phục hồi chế độ
VNCH; đấu tranh chính trị từ nay chỉ có ý nghĩa và hy vọng nếu là cuộc đấu
tranh vì dân chủ bằng phương thức bất bạo động qui tụ một cách bình đẳng những
người dân chủ thuộc mọi quá khứ chính trị. Sau đó chúng tôi dành trọn hai năm
để nghiên cứu và thảo luận trong tinh thần gạt bỏ mọi trói buộc và thành kiến
để khảo sát thực trạng Việt Nam và tất cả những thay đổi chế độ đã diễn ra trên
thế giới. Đó đã là hai năm của một cuộc thám hiểm trí tuệ sôi sục và đầy đam
mê. Kết luận của chúng tôi là cuộc cách
mạng dân chủ sẽ rất dài và khó khăn. Cả hai chuyên gia đều đã rời nhóm sau
đó trong tình bạn; họ hoàn toàn đồng ý với những suy nghĩ chung nhưng họ tự
thấy không đủ kiên nhẫn. Anh bạn chọn con đường hợp tác để thay đổi chế độ từ
bên trong. Anh nói if you can't beat them, join them (nếu không đánh bại
được họ thì hãy hợp tác với họ). Anh là một người thực tiễn.
Trước
hết chúng tôi coi chấm dứt độc tài và thiết lập dân chủ là một cuộc cách mạng
rất lớn và nghiên cứu những điều kiện để một cuộc cách mạng thành công. Chúng
tôi tìm ra bốn điều kiện vừa cần vừa đủ:
1/người dân trong nước đồng thuận rằng chế
độ hiện có là tệ hại và phải thay đổi;
2/ đảng hoặc nhóm cầm quyền mất lý tưởng,
trở thành đạo tặc, chia rẽ nội bộ và không còn sức sống và khả năng tự vệ của
một tập thể;
3/người dân trong nước đồng thuận về một
chế độ mới phải có; và
4/có một tổ chức đủ mạnh để làm tụ điểm cho
nguyện vọng đổi mới.
Vào thời điểm 1984, khi chúng tôi nhận ra
những điều kiện này, tình hình Việt Nam đúng là chưa chín muồi. Người dân trong
Nam cũng như ngoài Bắc quả là rất thất vọng với chính quyền cộng sản nhưng đảng
cộng sản dù rất bối rối cũng còn khá gắn bó. Mặt khác chưa có đồng thuận dân
tộc về một chế độ mới; đa số đảng viên cộng sản vì nhiều lý do khác nhau còn
gắn bó với đảng trong khi đa số những người đấu tranh tại hải ngoại chỉ muốn
lập lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Trong bốn điều kiện này điều kiện thứ tư,
nghĩa là tổ chức, là điều kiện quan trọng nhất và cũng là điều kiện hoàn toàn
thiếu vắng, thậm chí còn có những trở ngại. Vì thế chúng tôi đã nghiên cứu và
thảo luận nhiều nhất về tiến trình thành lập và hành động của một đảng cách
mạng. Và kết luận đã rất đặc sắc. Nó trái ngược hẳn với thành kiến chung không
biết từ đâu mà có của trí thức Việt Nam về đấu tranh chính trị. Chúng tôi đã nhận diện năm giai đoạn đấu
tranh cách mạng:
1/ xây dựng một tư tưởng chính trị;
2/ xây dựng một đội ngũ nòng cốt
3/ xây dựng và kiểm điểm phương tiện
4/ xây dựng cơ sở quần chúng
5/ vận động quần chúng đứng dậy và tiến
công giành chính quyền.
Kinh nghiệm các cuộc cách mạng lớn cho thấy
trong năm giai đoạn này hai giai đoạn đầu khó khăn và dài nhất. Phải vài
thập niên mới xây dựng được một tư tưởng chính trị đúng nghĩa và một đội ngũ
nòng cốt đúng nghĩa, nhưng một khi đã có hai yếu tố này rồi thì tổ chức có thể
vận dụng một cơ hội để giành thắng lợi trong vàì năm, thậm chí vài tháng.
Đối chiếu với tình hình Việt Nam chúng tôi
nhận định rằng thời gian để xậy dựng tổ chức có thể còn lâu hơn do di sản văn
hóa Việt Nam. Người Việt Nam, nhất là trí thức, không những không có tổ chức mà
còn dị ứng với tổ chức, hay nếu có nhìn thấy sự cần thiết của tổ chức thì cũng
không hiểu sự khó khăn của nó, và thường nhảy xổ vào giai đoạn vận động quần
chúng nổi dậy, nghĩa là giai đoạn cuối cùng của tiến trình đấu tranh. Không
khác gì chỉ muốn hái quả mà không chịu trồng cây. Những manh động như vậy chỉ
có thể thất bại và gây thất vọng. Chúng tôi kết luận: dù phải kiên trì trong nhiều
thập niên, nghĩa là dài hơn vốn thời gian hoạt động của hầu hết anh em chúng
tôi, cũng phải xây dựng tổ chức vì không có chọn lựa nào khác. Chính kết luận
này, mà tất cả chúng tôi đều hoàn toàn nhất trí, đã khiến hai anh bạn chuyên
gia rời tổ chức. Bình thường người ta chia tay vì không đồng ý, ở đây chúng tôi
chia tay vì đồng ý. Chúng tôi vẫn là bạn.
Ngay cả giai đoạn vận động quần chúng mà
nhiều người và tổ chức cho là công việc duy nhất của cuộc đấu tranh vì dân chủ
cũng không như họ tưởng. Đã có vô số kinh nghiệm và nghiên cứu về chủ đề này và
tất cả đều có cùng một kết luận là một
khối quần chúng dù đông đảo và bị ức hiếp đến đâu cũng không nổi
dậy đánh đổ tập đoàn thống trị. Họ chỉ nổi dậy khi đã hội đủ hai điều kiện :
- Một là họ ý
thức một cách rõ rệt rằng họ là một khối người liên đới với nhau trong một số
phận chung đang bị một nhóm người khác ức hiếp. Nói cách khác, một mặt, phải có
một giải pháp chung cho tất cả chứ mỗi người không thể luồn lách để tự giải
quyết những vấn đề cá nhân bằng những giải pháp cá nhân; và, mặt khác, phải có
sự hiện hữu được nhận diện một cách rõ rệt của hai tập thể : một tập thể
ta và một tập thể địch.
- Hai là quần
chúng chỉ đứng dậy tranh đấu nếucó một tổ chức để động viên và lãnh đạo họ và tổ chức này phải
đủ mạnh để đem lại cho họ niềm tin vào thắng lợi. Quần chúng không lãng mạn.
Chưa xây dựng được một tổ chức mạnh thì
không động viên được quần chúng, cùng lắm chỉ động viên được một số nhỏ, rồi
thất bại và gây thất vọng, như kinh nghiệm của hơn ba mươi năm qua đã chứng tỏ.
Chuyển động xã hội đưa đến cuộc cách mạng thay đổi chế độ
diễn ra như thế nào? Điều kiện thứ hai
trong bốn điều kiện cần và đủ để một cuộc cách mạng thành công là đảng cầm
quyền mất lý tưởng và phân hóa để chỉ còn là một hư cấu, chế độ chuyển từ độc
tài đảng trị sang độc tài cá nhân. Từ đó, bất mãn và phẫn nộ tập trung vào một
khuôn mặt cụ thể và dễ bộc lộ hơn trong khi đàn áp cũng gia tăng một cách tự
nhiên vì quyết định nằm trong tay một người và người đó lại chính là đối tượng
bị chống đối. Vòng xoắn leo thang phẫn nộ - chống đối – đàn áp - chống đối này
sẽ đưa nhiều thành phần xã hội nhập cuộc đấu tranh cho dân chủ. Kinh nghiệm cho
thấy trong hầu như mọi trường hợp chuyển hóa về dân chủ các thành phần này
thường nhập cuộc theo cùng một thứ tự đã được nhiều nghiên cứu xác định, đặc
biệt là một công trình nghiên cứu rất công phu của Trung Tâm Woodrow Wilson
Center, cho đến nay chưa bị phản bác, qui tụ một số lượng đông đảo những nhà
nghiên cứu có uy tín trong hơn hai năm từ 1979 đến 1981.
-
Đầu tiên là giới văn nghệ sĩ, những người cần tự do nhất để có thể sáng tạo đồng thời
cũng là những người có bản chất phóng khoáng và chính quyền cũng không lo ngại.
Lớp người này tuy ít và hiểu biết chính trị sơ sài nhưng lại có một khả năng
động viên lớn do sức thu hút quần chúng của họ.
-
Kế tiếp là thành phần cởi mở trong đảng cầm quyền và bộ
máy nhà nước. Cần nhấn mạnh rằng mục đích ban đầu của
thành phần này không phải là thay đổi chế độ mà là bảo vệ chế độ. Một phần vì
cảm thấy không được đãi ngộ xứng đáng, một phần vì sáng suốt, họ tin rằng chế
độ không thể tồn tại như hiện trạng và họ vận động cải tiến nó để giúp nó tiếp
tục tồn tại. Chỉ sau khi những cố gắng này chứng tỏ rõ ràng là tuyệt vọng họ
mới đứng về phe dân chủ.
- Sau đó
là các tập hợp ngành nghề, như các đoàn thể nhà báo, luật gia, y sĩ, kiến trúc
sư, nhà giáo, nhà nông v.v. Tất cả
đều bực bội vì ngành nghề của họ bị bế tắc do chính quyền. Đặc tính chung của
những chế độ độc tài tham nhũng là tất cả mọi ngành nghề đều bị chèn ép, quyền
lợi tập trung trong tay một vài băng đảng tay chân của chính quyền, vì thế mỗi
tập thể đều là một trái bom nổ chậm và khi một ngành đứng dậy phản đối thì một
cách nhanh chóng các ngành nghề khác cũng hưởng ứng theo.
-
Sau cùng là tuổi trẻ, thanh niên và sinh viên. Khi tuổi trẻ đã nhập cuộc một cách đông đảo thì sự sụp
đổ của chính quyền là điều chắc chắn.
Những nghiên cứu này có thể giúp giải thích
biến cố Thiên An Môn năm 1989 trong đó sinh viên Trung Quốc đã nổi dậy và bị
tàn sát nhưng sau đó chính quyền cộng sản Trung Quốc vẫn đứng vững. Đó là vì
tuổi trẻ Trung Quốc đã nổi dậy bồng bột và đơn độc trong một xã hội chưa sẵn
sàng. Con số 10.000 sinh viên trong một nước với 1.300 triệu người cũng là một
tỷ lệ quá nhỏ. Chúng cũng giải thích tại sao tình hình Việt Nam đã không chuyển
động cho tới nay, đồng thời cho phép đánh giá mức độ chín muồi của tiến trình
dân chủ hóa tại nước ta.
Giới văn nghệ sĩ Việt Nam đã bất động; họ không cần tự do vì không có nhu cầu sáng tạo. Văn học
và nghệ thuật Việt Nam không sáng tạo và do đó không làm nảy sinh nhu cầu đòi
tự do. Điều này chúng ta có thể thấy rõ, văn nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại không
bị kềm kẹp nhưng cũng không có sáng tạo nào dù những thảm kịch của giai đoạn
lịch sử vừa qua đã có thể là chủ đề cho những tác phẩm rất lớn, các ca sĩ hát
đi hát lại những bản nhạc đã quá cũ về cả nhạc lẫn lời và ý. Chỉ mới gần đây
mới có những hiện tượng Việt Khang, Kim Chi v.v. Hy vọng đó là những con én báo
mùa xuân.
Các tập thể nghề nghiệp cũng không nhiều tâm sự. Kể cả hai tập thể đông đảo đáng lẽ phải rất đau nhức là
giới nhà báo và giới luật gia. Họ bị bắt buộc phải hàng ngày phản bội nghề
nghiệp và danh dự của mình, nhà báo phải xuyên tạc, thẩm phán phải xử ngược với
luật pháp và lương tâm, luật sư không được bào chữa tận tình. Thậm chí cơ quan
lập pháp cao nhất, quốc hội, cũng là cơ quan quyền lực cao nhất trên danh
nghĩa, cũng không hề phiền lòng khi luật pháp và hiến pháp bị vi phạm thô bạo.
Chắc chắn tuyệt đại đa số "đại biểu" tin chắc rằng vai trò của quốc
hội chỉ là để làm công cụ cho chính phủ và không cần thắc mắc.
Vậy phải chăng chỉ còn trông đợi ở những "thành phần
sáng suốt" trong đảng và nhà nước cộng sản? Không ít người tin như vậy, nghĩa là Việt Nam chỉ có thể
thay đổi nhờ một "Gorbachev Việt Nam" hay là nhờ đảng cộng sản tự vỡ,
tự tách. Nếu như thế thì còn phải chờ đợi rất lâu vì các "thành phần sáng
suốt" này hoặc chỉ muốn chấn chỉnh đảng để có thể chống lại dân chủ, hoặc
chỉ lên tiếng kêu gọi dân chủ một cách rụt rè sau khi đã trở thành những vị
"nguyên là". Các xung khắc trong nội bộ đảng và nhà nước cộng sản có
và ngày càng nhiều nhưng vẫn chưa đủ mạnh để đẩy một cấp lãnh đạo thất vọng nào
vào hàng ngũ dân chủ.
Một số người, chủ yếu ở hải ngoại, hy vọng
khối dân oan sẽ là chủ lực của cuộc tiến công giành dân chủ. Nhưng khối dân oan
là một khối cần được giúp đỡ hơn là một lực lượng. Họ không phải là một tập thể
liên đới. Họ đi cùng nhau nhưng không có đòi hỏi chung. Họ chỉ có thể hưởng ứng
và tăng cường cuộc nổi dậy đòi dân chủ chứ không thể là chủ lực.
Nhưng tại sao các thành phần đáng lẽ phải đi đầu trong
đấu tranh dân chủ hóa lại bất động như thế? Đó là vì mọi thành
phần xã hội đều phải do trí thức lãnh đạo, nhất là trong kỷ nguyên tri thức
này, trong khi trí thức Việt Nam nhất định không chịu đảm nhiệm vai trò của
mình. Thay đổi từ độc tài sang dân chủ là một cuộc cách mạng lớn, rất lớn,
nhưng trí thức Việt Nam, hậu duệ của giai cấp sĩ ngày xưa, chỉ có văn hoá làm
quan chứ không có văn hóa cách mạng, họ được đào tạo và tự đào tạo để làm công
cụ cho một chế độ chứ không phải để thay đổi chế độ. Cái kẹt của chúng ta là
thế. Quần chúng Việt Nam đã chín muồi
cho một cuộc chuyển động về dân chủ nhưng trí thức thì không. Chúng ta
giống như một đoàn tàu mà các toa tầu đều đã sẵn sàng nhưng động cơ chưa chạy.
Tình trạng này không mới, nó chỉ là sự tiếp nối của một di sản lịch sử và văn
hóa. Do ảnh hưởng tồi tệ của Khổng Giáo, một hằng số trong lịch sử Việt Nam và
Trung Hoa là những thay đổi chế độ đều hoàn toàn không do kẻ sĩ mà do những
vương tôn, những võ tướng hay những anh hùng áo vải xuất phát từ quần chúng.
Trí thức Việt Nam thừa hưởng của giai cấp sĩ ít nhất hai
tật nguyền nặng nề.
Một là họ hoàn toàn không có văn hóa chính trị. Những sĩ tử đậu những khoá thi thơ phú vớ vẩn được cử làm
quan trị dân để lại cho lớp hậu duệ thành kiến tệ hại là làm chính trị không
cần phải học. Trí thức Việt Nam không có kiến thức chính trị không phải vì
không học nổi mà vì không thấy cần phải học.
Tật nguyền thứ hai, còn nghiêm trọng hơn, là họ không
yêu nước. Tổ quốc trước hết là đồng bào, yêu nước trước hết là quí
trọng đồng bào của mình nhưng mộng đời của kẻ sĩ trong hàng ngàn năm đã chỉ là
được làm quan để "giúp vua trị nước", nghĩa là làm tay sai cho một
bạo quyền để thống trị và bóc lột quần chúng. Trong mỗi trí thức Việt Nam đều
mai phục một tên phản quốc. Đó là lý do khiến trí thức Việt Nam không phẫn nộ
trước một chính quyền kéo đất nước vào thảm họa một cách hung bạo, hay không đủ
phẫn nộ để thấy phải có phản ứng.
Trí thức Việt Nam vẫn chứng tỏ chưa khắc
phục được hai tật nguyền truyền kiếp này.
Nói như thế không có nghĩa là đất nước
không có lối thoát. Trí thức Việt Nam về kiến thức và kỹ năng không thua kém
trí thức nhiều nước dân chủ phát triển. Họ thiếu ý chí, nhưng ngay về điểm này
họ cũng đã thay đổi khá nhiều. Tâng bốc chế độ cộng sản là điều không một trí
thức nào còn đủ trơ trẽn để làm nữa. Anh bạn tôi kể chuyện một trí thức khá nổi
tiếng từng đóng góp nhiều cho thắng lợi của đảng cộng sản. Vị này nói rằng: "Có
lẽ chúng tôi lại sắp phải hy sinh một lần nữa". "Chúng tôi"
là những vị "nguyên là" đã từng có danh phận trong chế độ. Hơi muộn,
nhưng cũng còn hơn không.
Nhưng hy vọng không phải ở đó. Hy vọng vì
một lý do khác. Lớp trí thức cũ có thức tỉnh và nhập cuộc thì càng tốt nhưng họ
không còn là thành phần không có không được nữa. Một lớp trí thức mới đã xuất hiện và ngày càng đông đảo. Họ không
phải chỉ là những sinh viên. Các sinh viên chỉ là một thiểu số. Trong đại đa số
họ là những người ở lứa tuổi 25 – 45, đã tốt nghiệp và đã tự lập. Họ gặp nhau,
kết bạn và trao đổi với nhau trên mạng qua các Blog, Twitter, Facebook. Họ đã
thất vọng với thế hệ cha anh và có lý. Thế hệ F. Họ ngày càng đông đảo và những
trao đổi của họ càng ngày càng có chất lượng. Thực tế cơ bản của Việt Nam hiện nay là đang có hai không
gian chính trị, một không gian thực trong đó người ta bắt buộc phải nói dối và
một không gian ảo trong đó người ta nói thực.
Chính quyền cộng sản khống chế không gian
thực nhưng đã bị đánh bật khỏi không gian ảo mặc dù những phương tiện khổng lồ
và một đội ngũ công an mạng hùng hậu bởi vì không có gì để nói. Dùi cui và chó
nghiệp vụ không thể sử dụng trên mạng. Trong thế giới ngày nay không gian mạng
quan trọng hơn hẳn không gian thực và ngày càng áp đảo hơn nữa. Đã thất bại
trên không gian mạng thì chắc chắn sẽ thất bại trên thế giới thực. Một sản phẩm
của không gian mạng là lớp người mà Việt Nam mong đợi nhưng chưa có: lớp trí thức chính trị. Thắng
lợi của dân chủ sẽ tới khi lớp trí thức này đủ mạnh và gắn bó để dắt tay nhau
từ không gian mạng bước ra đời thực. Quần chúng đã chín muồi và đang chờ đợi
họ.
Bao giờ? Không ai có thể quả quyết, chỉ
biết chắc một điều là đặc tính của không gian mạng là sự nhanh chóng.
Chúng ta cũng có thể đóng góp để tiến trình
này nhanh chóng hơn. Lớp người lớn tuổi bằng thái độ khuyến khích và hợp tác
khiêm tốn. Lớp trẻ bằng cách dứt khoát đoạn tuyệt với văn hóa nhân sĩ của tầng
lớp cha anh và quả quyết sống như những con người tự do, quả quyết sống khác
với cách cha anh mình đã sống. Họ sẽ hiểu, họ đang hiểu, rằng tự do và dân chủ
không bao giờ miễn phí mà luôn luôn đòi hỏi phấn đấu và hy sinh để có. Và một
khi đã quyết định đấu tranh tranh thực sự họ sẽ hiểu rằng chỉ có thể giành
thắng lợi cho dân chủ nếu xây dựng được một tổ chức dân chủ có tầm vóc. Họ cũng
sẽ hiểu phải làm gì và như thế nào trong mỗi chặng đường.
(tháng 01/2013)
Nguyễn Gia Kiểng
Nguyễn Gia Kiểng
---------------------------------
No comments:
Post a Comment