Lundi 28 Janvier 2013
Ý kiến về việc kiện
TQ ra một trọng tài quốc tế là không mới. Nhiều học giả trong quá khứ đã từng
đặt vấn đề. Monique Chemillier-Gendreau qua hồ sơ « La Souveraineté sur les
Archipels Paracels et Spratleys » hay Brice M. Claget thuộc tổ hợp luật sư
Covington&Burling qua tập hồ sơ « Những yêu sách đối kháng của Việt Nam và
Trung Quốc ở khu bãi ngầm Tư Chính và Thanh Long »… là những thí dụ điển hình.
Đây là những công trình nghiên cứu khoa học, có thể đặt làm nền tảng lịch sử và
pháp lý cho hồ sơ của VN. Tuy nhiên, các hồ sơ này khó có thể áp dụng nguyên
trạng, VN có thể thua kiện (hay bị thiệt hại) vì hồ sơ pháp lý của VN có khiếm
khuyết. Lý ra, hồ sơ này cần được các học giả VN nghiên cứu sâu xa thêm để bổ
túc.
Vụ Phi đệ đơn kiện Trung Quốc đầu tuần
trước đã làm nóng lại vấn đề kiện tụng.
Học giả VN đã khen
rằng « Phi đã rất khôn ngoan », cho rằng Phi đã « lách qua một khe cửa hẹp »
của Luật quốc tế về Biển.
Thực ra thì chẳng có
gì khôn ngoan trong việc này. Vì đây chỉ là một thủ thuật khá đơn giản của giới
luật gia. Một người bình thường, không phải là chuyên gia về luật Biển, sau khi
nắm được những gì mà phía Trung Quốc bảo lưu, chỉ cần nghiền ngẫm bộ Luật quốc
tế về Biển 1982 và tham khảo một số vụ án mẫu của các Tòa quốc tế, cũng có thể
thấy được kẻ hở này.
Xét hồ sơ kiện của
Phi, nguyên nhân của vụ kiện là đặt trên việc diễn giải giải khác nhau giữa các
bên về một điều ước trong UNCLOS, ở đây là những vấn đề chung quanh cách diễn
giải của điều 121. Tại sao Phi không kiện TQ về vấn đề chủ quyền và việc phân
định ranh giới biển ?
Bởi vì phía Trung
Quốc, qua tuyên bố này 26-8-2006, đã bảo lưu như sau :
Nhà nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Quốc không chấp nhận bất kỳ thủ tục nào được qui định theo mục
2, Phần XV của Công ước đối với tất cả các loại tranh chấp được ghi ở các khoản
a), b) và c) của điều 298 của Công ước.
Tức là phía Trung
Quốc từ khước các thủ tục giải quyết của Luật Biển, trong việc hoạnh định ranh
giới các vùng biển hay tranh chấp về vịnh hay danh nghĩa lịch sử.
Từ sau vụ tàu Bình
Minh bị cắt cáp, ngày 24-6-2011 tác giả có viết bài « Việt Nam cần
điều chỉnh lại chiến lược biển Đông », có viết như sau :
« … khi việc diễn giải một điều ước trong
bộ Luật biển giữa hai nước có mâu thuẫn, chiếu theo điều 286 của luật biển
1982, nếu tranh chấp không thể giải quyết bằng thuơng thuyết, các bên liên quan
có thể đưa ra một trọng tài để xét xử. …Hiệu lực các đảo theo điều 121 có thể
phân xử bằng một trọng tài quốc tế. Bởi vì, nếu các bên tranh chấp có những
cách diễn giải đối nghịch nhau về một điều ước trong bộ Luật biển 1982, thì cơ
quan có thẩm quyền giải thích các điều ước của bộ luật này là một trọng tài
quốc tế. »
Ta thấy ý kiến của
Phi đâu có mới mẻ gì, cũng đâu có « khôn ngoan » gì, (vì người viết còn viết ra
được), như học giả VN đã nói ? (Cũng thật phiền khi nghe học giả khác kể công
rằng việc Phi kiện TQ là dựa trên ý kiến của mình !)
Vấn
đề kiện tụng đặt ra đúng lúc. Tuy nhiên nhà nước VN hiện nay có chủ trương «
khai thác chung » với Trung Quốc chứ không muốn giải quyết những tranh chấp.
Ngày 11-10-2011, hai
bên Việt-Trung đã ký « Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa », theo điều 3 và điều 4 :
3. Trong tiến trình đàm phán vấn đề
trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa
thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển
Đông” (DOC). Đối với tranh chấp trên biển giữa
Việt Nam - Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu
nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các
bên tranh chấp khác.
4. Trong tiến trình tìm kiếm giải
pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau,
đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp
mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của
hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn
bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển
theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này
Việc « hợp tác cùng phát triển » là định
hướng chủ đạo. Có thể vì vậy nên
không có hồ sơ nào của học giả VN lập ra để bảo vệ những quyền lợi chính đáng
của mình tại HS và TS bằng phương hướng luật pháp. Nhiều học giả Việt Nam, kể
cả một tổ chức chính trị vừa mới được thành lập, cũng chủ trương « khai thác
chung » với Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là việc khai thác chung đó được đặt trên
nguyên tắc nào ?
Đề nghị « gác tranh
chấp cùng khai thác » không phải là mới, từ thập niên 90, đã có nhiều học giả
nước ngoài đề nghị. Trong tất cả các đề nghị, không thấy giải pháp nào là «
công bằng », không gây thiệt hại cho VN.
Nguyên tắc hợp tác giữa hai bên một mạnh
một yếu là nguyên tắc của kẻ mạnh.
Trở lại vụ kiện của
Phi, trên trang web của Bộ Ngoại giao Phi, có đăng bài giải thích vì sao Phi
kiện TQ, dưới hình thức câu hỏi và câu trả lời. Trong đó có câu hỏi như sau :
Hỏi
: tại sao chúng ta không khai thác chung với Trung Quốc ?
Trả
lời : việc khai thác chung, theo nguyên tắc của Trung Quốc đặt
ra, thì trái ngược với luật pháp của Phi. Việc khai thác chung phải phù hợp với
luật pháp của Phi.
Tức là, việc khai
thác chung, lập trường của TQ trước sau không đổi, là nguyên tắc của Đặng Tiểu
Bình : khai thác chung nhưng chủ quyền thì thuộc về Trung Quốc. Vì nếu TQ đồng
ý khai thác theo quan điểm của Phi, việc khai thác chung đã thực hiện.
Như vậy, việc « khai
thác chung » là trái với qui định của luật lệ của VN, giống như trường hợp của
Phi.
Một câu hỏi và trả lời khác, cũng nên nghiền ngẫm, trong văn
kiện giải thích vì sao Phi kiện TQ :
Hỏi
: tại sao dân Phi cần ủng hộ hành động này ?
Trả
lời : nếu người ngoài vào nhà của mình, cướp đi một vật của mình,
thì phản ứng của mình như thế nào ? Hành động của chúng ta là nhằm bảo vệ lãnh
thổ và vùng biển của tổ quốc mình.
Nếu cần phải khen
hành động của Phi, thì nên khen ngợi những lập luận này. Những lập luận chính
đáng này đã thúc đẩy Phi làm việc đó.
Mà ý kiến của các
câu hỏi-trả lời này, từ rất lâu, nhiều lần, tác giả cũng đã viết với nội dung
tương tự :
« Một tên cướp, vào nhà người ta đòi chia hai ngôi nhà với
chủ. Trường hợp này chủ nhà sẽ “bảo vệ” chủ quyền ngôi nhà của mình hay là tìm
phương pháp giải quyết “tranh chấp” với kẻ cướp ? »
Điều tác giả muốn
nhấn mạnh trong bài này, dường như khuynh hướng muốn VN kiện Trung Quốc tăng
cao trong dư luận VN. Đây sẽ là điều tốt. Đánh một đối thủ mạnh hơn mình nhiều
lần thì cần phải đánh liên hoàn, theo lối « quần hồ » vây « mãnh hổ ». Nhưng có
nhiều điều cần suy nghĩ lại.
Thứ nhứt, VN không
nên hấp tấp kiện TQ ở Trường Sa. Hồ sơ Trường Sa tuy nóng nhưng phải giải quyết
lúc « nguội », mà nên kiện ở vấn đề Hoàng Sa, một hồ sơ « đóng băng » vì để quá
lâu. Mặt khác, chuyện Trường Sa nên để cho Phi giải quyết. Không phải vụ kiện
của Phi cũng giúp cho VN giải quyết các vấn đề mấu chốt ở TS hay sao ?
Vấn đề nên nghiên cứu là VN sẽ kiện về
cái gì ở Hoàng Sa và kiện ở đâu ?
Vì thiếu thông tin
từ nội bộ VN, người viết loáng thoáng nghe tin hiện hai bên Việt-Trung đang
phân định vùng ngoài cửa vịnh Bắc Việt. Phía TQ đòi (?) chia theo đường trung
tuyến, tính từ đường cơ bản quần đảo Hoàng Sa với bờ biển VN.
Việt Nam hiện nay «
bí lối », không có lý lẽ nào để phản biện lại TQ về chủ quyền của nước này tại
HS. Phương pháp mà VN đã và đang làm, là tìm cách làm giảm hiệu lực (theo điều
121, khoản 3 UNCLOS) các đảo HS để bớt thiệt hại. Đây cũng là việc mà các « học
giả » VN đã và đang nỗ lực để làm.
Nhưng việc này cho
thấy hoài công, ít ra là không có kết quả cho đến nay. Bởi vì, nếu mình không
biết Trung Quốc muốn gì, các việc làm này sẽ chỉ kéo dài thời giờ, mà việc này
càng gây khó khăn cho VN. Biết địch biết ta, địch mạnh hơn ta nhiều lần, chưa
chắc thắng. Đằng này, địch mạnh hơn ta nhiều lần mà ta hoàn toàn không biết gì
về địch. Kết quả ta chỉ có thua, mà thua cháy túi.
TQ chiếm HS và sẽ chiếm TS vì muốn kiểm
soát toàn bộ biển Đông. Đó là « không gian sinh tồn » của TQ. Thuơng
lượng với TQ để giảm hiệu lực các đảo HS và TS là làm việc viễn vông, mất thời
giờ. Vì chủ ý của TQ là chiếm HS (và TS) là để thực hiện một chiến lược đã
thành hình từ 6, 7 thập niên nay. Người viết đã nhiều lần cảnh báo.
Vấn đề là, VN không
thể để TQ chiếm các đảo TS. Nếu họ chiếm, điều này đồng nghĩa với việc VN mất
toàn bộ vùng biển của mình. Mặt khác, nếu không thể lấy lại HS, thì phải giảm
thiểu những đòi hỏi quá lố của TQ ở vùng của vịnh Bắc Việt (và sau đó vùng biển
các tỉnh miền trung).
Vấn đề HS, theo tôi,
VN có thể áp dụng điều 284 UNCLOS để hòa giải với TQ qua trung gian một nước
nào đó. VN có thể áp dụng các trường hợp như đã áp dụng tại vùng Địa Trung Hải,
tách rời từng phần cột nước, thềm lục địa và chủ quyền các đảo, sau đó thuơng
lượng với TQ từng vấn đề một.
Trước mắt là phân
định cột nước. Ngư dân VN cần an ninh để khai thác vùng biển HS vì đó là ngư
trường truyền thống. Nên thành lập một vùng « đánh cá chung » ở HS, như trong
vịnh Bắc Việt.
-------------------------------------------
CÁC BÀI TRƯỚC :
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu