Quỳnh Giao - Việt Báo Xuân 2013
Sunday,
January 27, 2013
"Một
ca khúc uy nghi hùng dũng, trong sáng mà êm dịu, với nội dung gợi nhớ uẩn thứ
tư trong ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức..."
Hình Bìa :
* Ca khúc Xuân Hành - tranh của họa
sĩ Duy Liêm, Tinh Hoa xuất bản tại Sàigòn năm 1959 *
Có phải là ngẫu nhiên không mà hai
nhạc phẩm đầy tính chất anh hùng ca của Lizst và Beethoven đều lấy âm giai Mi
giáng Trưởng (Mi bémol Majeur)? Đó là Cầm tấu khúc số 1 của Lizst có tên là
"Héro" và Cầm tấu khúc số 5 của Beethoven có tên là "Emperor"
viết cho đại đế Napoléon.
Trong nền tân nhạc Việt, các ca khúc
về lịch sử hay những bài hùng ca thường được viết trên âm giai Fa Trưởng. Nói
về nhạc thuật, các âm giai Trưởng như Do, Ré và Fa nghe thấy trong sáng và hợp
với giọng Kim. Khi giọng Kim là giọng chính (chant), bè phụ thường được viết
thấp hơn để làm nổi giọng chính. Những ca khúc như “Việt Nam Minh Châu Trời
Đông” của Hùng Lân, “Nước Non Lam Sơn” hay “Bóng Cờ Lau” và “Tiếng
Chim Gọi Đàn” của Hoàng Quý, “Hội Nghị Diên Hồng” hay “Bạch Đằng
Giang” của Lưu Hữu Phước, “Việt Nam, Việt Nam” của Võ Đức Thu, “Việt
Nam Anh Dũng” của Dương Thiệu Tước”, “Việt Nam Hùng Tiến” của Thẩm
Oánh…v.v. đều được viết trên cung Fa Trưởng.
Thật sự, thì âm giai trong sáng hay u
tối, êm dịu hay gay gắt chỉ có ảnh hưởng với nhạc khí, chứ không ảnh hưởng với
giọng hát. Giọng hát nhẹ êm hay mạnh mà cứng là do âm sắc (timbre) của
người trình bày. Giọng Thổ thường dầy hơn giọng Kim, ngược lại thì giọng Kim
lanh lảnh và thánh thót hơn giọng Thổ. Riêng các nhạc sĩ sáng tác và sử dụng
dương cầm, mà Frederic Chopin là một điển hình, thì chuộng loại âm giai mang
nhiếu dấu giáng (bémol). Ông cho rằng đàn những nốt giáng (phím đen trên
dương cầm) thì tiếng đàn êm hơn, và về kỹ thuật thì ngón tay trườn trên phím,
càng sâu càng dễ di chuyển lả lướt hơn…
Trong khung cảnh chung như vậy, ca
khúc “Xuân Hành” của Phạm Duy lại được viết trên cung Mi giáng Trưởng,
trong sáng mà êm dịu hơn âm giai Fa Trưởng.
Những ai mới nghe ca khúc này thì tự
hỏi rằng tác giả dùng chữ "hành" trong ý nghĩa nào. Hành có thể là
hành trình, hành khúc, hoặc biết đâu còn là một thể thơ cổ, như bài Tỳ bà
hành mà ai cũng biết qua bản dịch của Phan Huy Vịnh, hay bài Hiệp khách
hành mà các độc giả của Kim Dung có thể còn nhớ và nhất là Hành phương
Nam của Nguyễn Bính? Người nghe hay người thưởng ngoạn có quyền mở rộng sự
cảm nhận để hiểu tác phẩm từ sở thích hay nhận thức khác biệt của mình như vậy.
Nhưng nhạc sĩ Phạm Duy là người cẩn
trọng, như tên của ông.
Trong cuốn "Ngàn Lời Ca"
được xuất bản tại hải ngoại năm 1987, ông giải thích khung cảnh sáng tác của
từng bài mà gọi đó là "sự tích". Ông trình bày rằng mình đã soạn
nhiều ca khúc về hành trình của con người trong cuộc đời, trong đó có ba bài
hành là "Lữ Hành", "Dạ Hành" và "Xuân
Hành". Chúng ta liền hiểu ra ý nghĩa của chữ hành trong tác phẩm.
Nếu "Lữ Hành" là
cuộc hành trình thơ thới và bất tận của loài người và được ông sáng tác tại
Sàigòn vào năm 1953 đầy hy vọng thì "Dạ Hành" là lúc con người
đi trong đêm tối. Mà bóng tối ở đây không là một khái niệm về thời gian khi
thiếu ánh mặt trời. Bóng tối là chông gai hiểm hóc của phận người và ca khúc
cũng được viết tại Sàigòn nhưng mà là Sàigòn khói lửa của chiến chinh tham tàn
năm 1970.
Rồi Phạm Duy mới nói về cuộc đi bình
thường là bài "Xuân Hành", sáng tác năm 1959, ở giữa hai bài
hành kia. Hành trình bình thường và muôn thuở như câu hỏi đầy vẻ triết học là
"người là ai, từ đâu tới và sẽ đi về đâu".... Ngươi từ lòng người đi
ra rồi sẽ trở về lòng người. Người vừa là thần thánh, vừa là ma quỷ, biết
thương yêu dai mà cũng biết hận thù dài…. Nhất là biết vui buồn giữa hai nhịp
đập của con tim, ngay cả khi tim ngừng đập.
Với khoảng cách thời gian, nghĩa là
có thêm sự chín mùi của cuộc sống, ta có thể nghe lại ba bài hành này mà thoát khỏi
hoàn cảnh của Sàigòn thời 53, 59 hay 70. Nghe lại với tâm cảnh của chính mình.
Đấy cũng là lý do mà Quỳnh Giao thích bài “Xuân Hành” hơn cả.
Về nhạc thuật thì đấy là một ca khúc
có nhịp điệu uy nghi hùng dũng, trong sáng mà êm dịu chứ không chát chúa như
nhiều bài hùng ca hoặc một khúc quân hành. Bài "Lữ Hành" rất
hay nhưng ít người hát vì từ đầu đến cuối là dùng nhịp chõi – syncope.
Đôi khi có người còn trình bày theo điệu "swing" khá giật nên không
phản ảnh được nội dung sâu sắc thánh thiện của lời ca. So với "Lữ Hành"
thì bài "Xuân Hành" dễ hát hơn, nhưng cũng cần trình bày hợp
ca nên đòi hỏi kỹ thuật hòa âm mới diễn tả hết giá trị của tác phẩm. Phải chăng
vì vậy mà ngày xưa, chúng ta ít được nghe ca khúc này ở ngoài các chương trình
của đài phát thanh?
Bây giờ mà nghe lại, khi tư duy đã
lắng đọng, người ta còn thấy ra một giá trị khác, là nội dung của lời từ.
Ca khúc Xuân Hành
Phạm Duy đã dẫn chúng ta vào tác phẩm
với lời giới thiệu về câu hỏi muôn đời là người từ đâu tới và đi về đâu. Nhưng
trong ca khúc mà cũng là một đời người từ thuở là mầm non chớm nở đến khi trở
thành lá úa, ông còn diễn tả nhiều điều khác nữa. Nổi bật trong đó là chữ nhân,
hay tinh thần nhân ái là chữ mà ông dùng. Chúng ta sinh ra là từ lòng người với
tiếng khóc và nụ cười, với thương yêu và hận thù lẫn đắm say. Nhưng chân lý
muôn đời là trưa hôm qua có thể còn là người, đêm hôm sau thì đã thác, có khi
là vị thần hoặc một lũ ma lẻ loi....
Chữ sinh và hủy chỉ là hai mặt của
cuộc đời và ai ai cũng như vậy. Nhưng, nội dung mang tính chất thánh ca của tác
phẩm nằm trong thông điệp chìm ẩn bên dưới: sự bất diệt trong vòng tử sinh đó
là chữ nhân. Nếu sinh ra và sống mãi với lòng nhân thì chẳng ai nên sợ cái
chết. Cuộc hành trình của đời người mang ý nghĩa thăng hoa của một mùa Xuân khi
nó được hướng dẫn bởi lòng tử tế.
Khi liên lạc với chú Phạm Duy - người
viết vẫn gọi ông như vậy với sự tôn kính - về bài Xuân Hành, Quỳnh Giao
đã lẩm nhẩm hát lại và ngẫm lại rồi nghĩ đến một thông điệp tôn giáo.
Đó là lẽ tử sinh của luân hồi, là ngũ
uẩn gồm có sắc-thọ-tưởng-hành-thức. Nhờ sự suy ngẫm đó mình tìm ra một chữ
"hành" trong kinh sách nhà Phật. Đấy là ý khác của "hành"
trong bài Xuân Hành. Rất đơn giản thì hành động tốt sẽ tạo ra thiện
nghiệp để có ngày vượt khỏi lẽ tử sinh. Phải chăng, câu "Đường nhân ái còn
đi mãi mãi" của ca khúc nói về một cách sống bất tử? Nếu quả như vậy thì
thông điệp này còn sâu xa hơn lời ca trong bài "Đường Chiều Lá Rụng"
của Phạm Duy....
Cho một số báo Xuân thì đấy là lòng tri ân được gửi đến tác giả, cùng với lời chúc Xuân.
__________________
Sau khi hoàn tất bài này, Quỳnh Giao đã gửi cho Phạm Duy. Ông lập tức trả lời, ngày mùng hai Tháng Giêng 2013: "Cháu viết rất hay. Từ nay may ra người ta mới hiểu được XUÂN HÀNH". Xin được giới thiệu bài này như lời vĩnh biệt người nghệ sĩ: tin từ trong nước cho biết Phạm Duy đã tạ thế tại Sàigon vào lúc 14:30 ngày 27 vừa qua. NXN
Cho một số báo Xuân thì đấy là lòng tri ân được gửi đến tác giả, cùng với lời chúc Xuân.
__________________
Sau khi hoàn tất bài này, Quỳnh Giao đã gửi cho Phạm Duy. Ông lập tức trả lời, ngày mùng hai Tháng Giêng 2013: "Cháu viết rất hay. Từ nay may ra người ta mới hiểu được XUÂN HÀNH". Xin được giới thiệu bài này như lời vĩnh biệt người nghệ sĩ: tin từ trong nước cho biết Phạm Duy đã tạ thế tại Sàigon vào lúc 14:30 ngày 27 vừa qua. NXN
Posted
by Nguyễn Xuân Nghĩa at 12:12 PM
-----------------------------------
No comments:
Post a Comment