Tháng Một 27, 2013 — Lê Mai
Thăng yên hạ mã bách thiên nan
Quốc thế như kim thực vị an
Nùng mạt, đạm trang, nhân tính cựu
Nguyên nhung bát thập bất tri nhàn
(Lên yên xuống ngựa khó muôn vàn
Thế nước hôm nay thực chửa an
Đậm, nhạt, mau, thưa người nếp cũ
Tám mươi lão tướng chẳng mong nhàn)
Tôi mở đầu vài cảm nghĩ về cuốn sách “Quyền Bính” (Tập 2
– Bên Thắng Cuộc, Huy Đức) bằng bài thơ của Tào Mạt: “Gặp Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đi bộ ứng khẩu làm ngay”. Năm 1991 ấy, tướng Giáp tròn 80 tuổi.
Sau Đại hội VII ĐCSVN, ông Võ Nguyên Giáp – một đại công thần của chế độ, chính
thức rời khỏi chính trường. Rồi những cuốn hồi ký nổi tiếng, rất có giá trị sử
học của ông liên tiếp ra đời: Chiến đấu trong vòng vây, Đường tới Điện Biên
Phủ, Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng…Nhưng,
trong những cuốn hồi ký ấy, ông chỉ nói rất ít về bản thân mình.
Thì đây, “Quyền Bính” có một chương riêng về tướng Giáp.
Tác giả đã cho chúng ta biết một câu nói rợn người đầy kinh hãi của Lê Đức Thọ
qua lời kể của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể Lê Duẩn: “Có lần ông Thọ nói ông còn
để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”. Than ôi! Một ông Đại tướng Tổng tư
lệnh, người Anh Cả đầu tiên và duy nhất của quân đội, đã làm nên biết bao công
tích, được thế giới ca ngợi, đã phạm “tội” gì mà Lê Đức Thọ dám đưa ra một lời
kết án tai ác đến cỡ đó?
Trong Quân ủy Trung ương, ông Thọ chỉ là Phó Bí thư, cấp
dưới của ông Giáp. Ông ta dĩ nhiên không phải là nhà quân sự chuyên nghiệp.
Chiến lược, chiến thuật quân sự, điều quân đánh đông dẹp bắc là nhờ tài năng
của các tướng lĩnh. Thế mà trong chiến dịch Quảng Trị (không chỉ chiến dịch
Quảng Trị), “Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường xuyên điện thẳng
cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình
vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc!”.
Lê Đức Thọ thường gọi ông Trần Bạch Đằng, một người cộng
sản cấp tiến cực kỳ tài hoa, tiếng tăm lẫy lừng là “thằng trời đánh” – điều cay
đắng là ông Đằng không bao giờ được vào Trung ương, dù có ông Lê Duẩn đỡ đầu.
Chính Giáo sư Hồ Ngọc Đại cũng đã một phen hoảng hốt sau khi bố vợ mất, ông hỏi
Đoàn Duy Thành, “Ba cháu mất rồi, liệu họ… có giết gia đình nhà cháu không?” (Làm
người là khó – Đoàn Duy Thành). Quả thật, quyền bính – vấn đề muôn thuở
trong lịch sử VN hiện đại.
Người làm chính trị, nắm quyền bính, điều quan trọng nhất
là để lại tiếng thơm trong sử sách. Tôi xin lưu ý, một Giáo sư người Mỹ sau khi
nghiên cứu về Mao Trạch Đông đã kết luận, cuộc đời ông ta làm được 31 việc
nhưng có tới 20 việc liên quan đến việc hủy hoại tinh thần và đạo đức con
người!
Quan sát sự vận hành quyền bính tại VN cho thấy, dường
như không ít nhà lãnh đạo cao cấp ghen tỵ với tài năng và vinh quang của tướng
Giáp, họ muốn hạ bệ uy tín cực lớn của ông trong đảng và dân chúng. Đến như ông
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, thay vì bác bỏ bản báo cáo sai sự thật của Nguyễn
Đức Tâm về vụ Sáu Sứ, ông lại chỉ đạo điều tra hai ông Võ Nguyên Giáp và Trần
Văn Trà; thay vì minh oan cho ông Giáp và ông Trà sau khi biết kết quả điều
tra, ông và Bộ Chính trị lại im lặng “đáng sợ”.
Có nhà nghiên cứu cho rằng, ông Võ Nguyên Giáp là điển
hình của một tài năng không được phát huy hết trong một xã hội mà sự vận hành
quyền lực tập trung vào tay một số người, lại thiếu công cụ để khống chế, kiểm
soát quyền lực ấy. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tham nhũng tuyệt đối và quyền
lực tuyệt đối cũng sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối.
Đúng như tác giả Huy Đức nhận xét, ông “mưu lược và quyết
liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi
Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng Giáp đã cùng
với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối
thủ chính trị nhân danh Đảng, Tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ
lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm
trận của ông”.
Thêm một điểm cần lưu ý, đó là ông Võ Nguyên Giáp đã xử
lý mẫu thuẫn “địch – ta” khác hẳn việc xử lý mẫu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Xử lý mẫu thuẫn “địch – ta” là xử lý mâu thuẫn đối kháng, một mất một còn –
chiến tranh là như thế. Song, xử lý mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thì phải
khác. Ông Trần Bạch Đằng từng nói: “Đành rằng làm chính trị là phải thủ đoạn.
Nhưng làm chính trị thì cũng phải có tình nghĩa, bạn bè chứ”. Chỉ có điều, đối
thủ chính trị của các ông không nghĩ và làm như vậy.
Quyền bính (quyền hành) và quyền lực đều có điểm chung là
quyền định đoạt mọi công việc và sức mạnh để đảm bảo thực hiện quyền ấy. Quyền
lực đồng nghĩa với sức mạnh và như vậy, kẻ mạnh nắm quyền lực sẽ thống trị và
chi phối kẻ yếu. “Quyền Bính” đã làm nổi bật tư duy và quyền lực của nhiều nhà
lãnh đạo cao cấp VN, của tập thể, của cả chế độ, trong mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, con người và tư tưởng; sự vận hành và chi phối của quyền lực, kết
quả của việc thực thi quyền lực. Có thể nói, “Quyền Bính” đã cho chúng ta thấy
sự vận hành quyền lực ảnh hưởng như thế nào đến tương lai đất nước và dân tộc
trong suốt chiều dài lịch sử VN hiện đại.
Anh Doan Tran, một người bạn thân của tôi ở Hoa Kỳ, rất
am hiểu văn hóa và lịch sử VN – người đã gửi tặng tôi ấn bản điện tử “Quyền
Bính” ngay sau khi phát hành, bằng một sự liên tưởng và tinh tế hiếm có, nhận
xét: “Hãy lưu ý hình bìa cuốn sách với chiếc xe hơi Lada, dây điện, đèn tín
hiệu giao thông rồi đọc chi tiết này trong cuốn sách để thấy sự thú vị:
“Khi nhậm chức, Nguyễn Văn Linh vẫn sử dụng một chiếc xe
hơi hiệu Lada của Liên Xô đã cũ thay vì tiêu chuẩn của Tổng bí thư phải là
“Volga đen” hoặc Toyota. Theo ông Bùi Văn Giao, trợ lý của Nguyễn Văn Linh:
“Ông không biết rằng, để Lada có thể chở Tổng bí thư, Văn phòng phải gắn thêm
máy lạnh. Vì tải thêm máy lạnh mà tuổi thọ của những chiếc Lada này bị giảm đi
rất nhanh, cứ sau một hai năm là phá luôn giàn máy. Một lần ông Linh đi công
tác về tỉnh, chiếc máy lạnh tự chế phát nổ. May mà khi đó, ông Linh đang ngồi
trong phòng họp còn chiếc xe thì đậu ngoài sân”.
Phải chăng, đưa “cái lạnh” của tư bản vào “cái nóng” của
xã hội chủ nghĩa, nó sẽ “trung hòa” và “bộ máy” sẽ vận hành tốt hơn? Không
phải! Trên thực tế, làm như vậy “bộ máy” bị hỏng nhanh hơn và tệ hơn nữa – nó
phát “nổ” rất nguy hiểm. Không thể “lắp ghép” một cách tùy tiện, bởi nó không
thể tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh, dù gắn cho nó cái “đầu” hay cái “đuôi” gì
đi nữa (“đuôi” định hướng XHCN chăng – một gợi ý!). Tri thức nhân loại đã kết
tinh hàng ngàn năm, sao người ta không tiến cùng văn minh thời đại, mà lại
“sáng tạo” ra con đường đi mới chưa có tiền lệ trong lịch sử và than ôi, sự
“sáng tạo” đó đã cho kết quả nhãn tiền rồi!
Cũng như “Giải Phóng”, “Quyền Bính” – dù khách quan đến
đâu, chúng ta vẫn nhận thấy tác giả tiếp tục dành cho ông Võ Văn Kiệt nhiều thiện
cảm. Anh Doan Tran cho rằng tác giả dường như “thần tượng hóa” ông Kiệt – tôi
nghĩ nhận xét đó hơi quá. Dù sao, cách sử dụng quyền lực và việc nắm quyền bính
của ông Kiệt được nhiều người ủng hộ, dù ông Tố Hữu bóng gió: “Sáu Dân muốn làm
vua Saigon”.
Ông Võ Văn Kiệt có cách giải quyết mâu thuẫn về chính trị
khá hay. Đã một lần ông nói với người lãnh đạo văn nghệ: “Ở Sài Gòn nếu đòi hỏi
người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ có Bà
Định; đóng Lênin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử
có ai đi coi không?”. Lại một lần khác, khi họp Bộ Chính trị để thông qua việc
chọn BHP làm đối tác thăm dò dầu ở mỏ Đại Hùng, Nguyễn Hà Phan phản đối: “Đồng
bào miền Nam chắc chắn không một ai đồng tình chọn Úc làm đối tác khai thác dầu
khí vì bọn Úc đã từng đưa quân vào tàn sát đồng bào ta”. Ông Võ Văn Kiệt liền
đứng dậy: “Nếu nói như Sáu Phan thì tôi đề nghị Bộ Chính trị nên chọn Lào đầu
tư. Mỹ là kẻ thù mới đánh ta; Pháp đô hộ 80 năm; Nhật khiến cho 2 triệu người chết
đói; Úc, Hàn theo Mỹ mang quân sang… Không có nước nào có công nghệ tốt lại
không có dính líu vào một ‘tội ác’ nào đó”.
Đọc “Quyền Bính” và “Giải Phóng”, chúng ta nhận thấy có
một điểm nổi bật nữa là tính tự trọng của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp thời ấy.
Họ dám làm và dám chịu trách nhiệm. Các ông Trường Chinh từ chức Tổng bí thư,
Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết Thắng bị kỷ luật do sai lầm của cải
cách ruộng đất. Ông Linh cũng đã phải một lần ra khỏi Bộ Chính trị. Ông Kiệt xé
rào, đổi mới. Ông Trần Phương quyết định từ chức sau vụ “giá – lương – tiền”
cho dù ông không phải là người chịu trách nhiệm chính. Ông Lê Duẩn thấy rằng,
sau vụ “giá – lương – tiền”, Tố Hữu không còn khả năng làm Tổng bí thư, dù đã
được chọn vào hàng ngũ kế cận. Và thực tế, tại Đại hội VI, Tố Hữu thậm chí
không được bầu vào Trung ương.
Phải thừa nhận, thời ấy đa số các nhà lãnh đạo cao cấp
không được đào tạo bài bản, song họ rất có trình độ, chỉ bằng tự học. Còn gần
đây và hiện nay thì sao? Không ít người gần như “mất trí” vì ham mê quyền bính:
giấu bệnh để mong làm Chủ tịch nước, giấu bệnh để làm Thường trực Ban bí thư,
sợ ra khỏi Bộ Chính trị thì chết không nhắm được mắt…Rồi một Tổng bí thư hai
nhiệm kỳ mà Phó Ban Tổ chức Trung ương nhận xét trình độ chỉ tầm cỡ cán bộ cấp huyện,
một Thủ tướng mà chỉ mới nghe tên thôi, người dân đã lắc đầu ngán ngẩm. Liệu
đất nước có thể phát triển sánh vai với thế giới nếu vấn đề quyền bính được vận
hành như thế?
Rốt cuộc, ai là người có quyền lực nhất? Nhà tương lai
học người Mỹ, Alvin Toffler, trong tác phẩm Thăng trầm quyền lực, đã
phân tích rất sâu sắc về quyền lực. Bạo lực, của cải và tri thức là ba đỉnh của
một tam giác quyền lực. Bạo lực chủ yếu dùng để trừng phạt, làm người ta khiếp
sợ nhưng là nguồn quyền lực ít linh hoạt nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc (“Giải Phóng”
và “Quyền Bính”), chúng ta đã rõ nhân vật nào, thời nào ưa sử dụng nguồn quyền
lực bạo lực nhất.
Của cải được dùng vừa trừng phạt lại vừa ban thưởng và có
thể được chuyển thành nhiều nguồn khác, là một công cụ quyền lực rất uyển
chuyển. Đọc Bên Thắng Cuộc cũng như quan sát tình hình hiện nay, chúng ta đã rõ
nhân vật nào, thời nào ưa sử dụng và sử dụng hết sức “thành công” nguồn quyền
lực của cải nhất.
Tuy vậy, tri thức mới là nguồn quyền lực cơ bản và linh
hoạt nhất, vì một người có tri thức có thể tránh được những thử thách đòi hỏi
sử dụng bạo lực hay của cải và có thể thuyết phục được những người khác để hoàn
tất những ý định mình mong ước. Tri thức tạo ra quyền lực có phẩm chất cao
nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc, chúng ta đã rõ nhân vật nào thường sử dụng nguồn
quyền lực tri thức nhất. Nếu nhân vật ấy sử dụng nguồn quyền lực bạo lực, chắc
chắn lịch sử VN hiện đại đã khác rồi.
Và một khi quyền lực được tạo ra từ quyền mưu hay từ
những yếu tố khác thay vì tri thức thì quyền lực đó không thể bền vững, khiến
cho những người nắm quyền lực kiểu đó trở nên đáng sợ – ngay cả với bạn bè,
đồng chí, người thân của họ. Lịch sử hiện đại VN không thiếu thí dụ minh họa
điều này.
“Quyền Bính” – vấn đề muôn thuở trong lịch sử VN hiện
đại. Một xã hội chỉ có thể phát triển tốt khi “quyền bính” được cân bằng, không
bị lũng đoạn hoặc tập trung vào trong tay một số người – cũng tức là phải tạo
ra một tam giác đều quyền lực trong đó ba đỉnh của nó chính là bạo lực, của cải
và tri thức.
Để kết thúc, tôi xin nhìn đôi nét tổng quát về Bên Thắng
Cuộc. Điểm mạnh của “Quyền Bính” cũng như “Giải Phóng” là nhiều tư liệu, vừa
trực tiếp, vừa gián tiếp, được thể hiện bởi một nhà báo lão luyện – công trình
mang phong cách báo chí. Tuy nhiên, tác giả Bên Thắng Cuộc tái hiện một giai
đoạn lịch sử VN hiện đại nhưng tư liệu gốc chiếm tỷ trọng không nhiều lắm, chỉ
có một số bức điện, một số báo cáo, một số biên bản, một số nghị quyết, còn chủ
yếu sử dụng các hồi ký và phỏng vấn nhân chứng.
Đối với những người am hiểu, còn rất nhiều sự kiện lịch
sử VN cực kỳ quan trọng, song có thể vì lẽ này, lẽ khác chưa được tác giả đề
cập. Vì vậy, tính đầy đủ và chính xác của nó chắc rằng còn phải thảo luận
nhiều. Các Phụ lục cuối mỗi tập sách không có gì đặc biệt, chưa tương xứng với
nội dung phong phú và những vấn đề rất lớn mà bộ sách đặt ra. Và, tác giả chỉ
nêu các sự kiện lịch sử nhưng không phân tích, không bình luận làm cho bộ sách
thiếu hẳn tính “hàn lâm” – đó không hẳn là một phương pháp tốt nhất?
Dẫu sao, Bên Thắng Cuộc thực sự là một công trình rất
đáng đọc, rất đáng tìm hiểu, rất đáng suy ngẫm, với tất cả ý nghĩa đầy đủ của
nó. Đọc Bên Thắng Cuộc, chúng ta càng hiểu thêm nhận xét “có một lịch sử như nó
diễn ra và một lịch sử như nhà sử học viết ra”. Thử hỏi, đến nay, đã có công
trình nào phản ánh đầy đủ, trung thực và hấp dẫn lịch sử VN hiện đại do các nhà
sử học VN “nổi tiếng” thể hiện? Cho nên, chúng ta không đòi hỏi tác giả Bên
Thắng Cuộc, song chúng ta có quyền hy vọng…
------------------------------------
NHỮNG
BÀI VIẾT LIÊN QUAN ĐẾN SÁCH “BÊN THẮNG CUỘC” CỦA HUY ĐỨC
(TIẾP THEO)
Như hai bờ sông Bến Hải
– Cuộc biểu tình chống báo Người Việt & Bên Thắng Cuộc (Bùi văn Phú)
25-1-2013
Ghi chú bên lề Bên thắng
cuộc (3) 26-1-2013
Ghi chú bên lề Bên thắng
cuộc (2) 23-1-2013
Ghi chú bên lề Bên Thắng
Cuộc (1) 22-1-2013
No comments:
Post a Comment