Nguyễn Trung
viet-studies 14-1-2013
Vài suy nghĩ về sửa đổi Hiến pháp
1992
I
Đảng và Nhà nước
Trong thực tiễn đời sống của hệ thống chính
trị nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam kể từ khi Việt Nam là một quốc gia
độc lập thống nhất cho thấy Đảng Cộng Sản Việt Nam – với đòi hỏi tự đặt cho
mình là phải bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng – đã và đang
là người nắm quyền lực toàn diện và tuyệt đối mang tính độc quyền toàn trị đối với quốc gia.
Cùng với sự trói buộc của ý thức hệ và sự
tha hóa trong thời bình, sự lãnh đạo của Đảng mang tính độc quyền toàn trị như
thế trên thực tế đã biến dạng thành sự cai trị, Đảng mới là nhà nước đích thực:
Nhà nước đảng trị. Sự tha hóa
này khiến Đảng với danh nghĩa là đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động… trở thành đảng
thống trị.
Với vị thế và quyền lực như vậy của ĐCSVN,
Nhà nước trở thành công cụ thực thi quyền lực và quyết định của Đảng, Hiến pháp
trở thành công cụ hợp thức quyền lực và việc làm của Đảng. Để biện hộ cho hệ
thống chính trị như vậy của đất nước, Hiến pháp 1992 xác định đấy là nhà nước pháp quyền định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Thiết kế như thế ngay trong Hiến pháp 1992,
Đảng được đặt ở vị trí đứng trên Hiến pháp và trên nhà nước. Đây chính là nội
dung cơ bản của Điều 4 trong Hiến pháp 1992. Trong một quốc gia với hệ thống
chính trị như thế hoàn toàn không có không gian cho tiêu chí quyết định số một của nhà nước pháp quyền, đó là: Hiến
pháp là quyền lực tối thượng.
Đem so sánh một bên là quyền lực mà Đảng
giành cho mình[1] và được luật hóa trong Điều
4, và một bên là những được/mất
trong quá trình phát triển mọi mặt của đất nước trong 37 năm độc lập thống
nhất, đặc biệt là so với thực trạng nguy hiểm của đất nước hôm nay, vai trò
lãnh đạo và phẩm chất của Đảng đối chiếu ngay với Cương lĩnh và Điều lệ của
Đảng, cũng như so với chính Điều 4, kết quả rõ ràng không như Đảng đã cam kết
với đất nước: Đảng không làm được nhiệm vụ tiên phong và lãnh đạo với đúng
nghĩa, mà chủ yếu chỉ thực hiện được vai trò của người có quyền thống trị.
Uy tín của Đảng cũng như lòng tin của nhân dân vào Đảng vì thế theo thời gian
chưa bao giờ giảm sút như ngày nay. Như thế tự mình, Đảng đã không thực hiện
nổi nhiệm vụ của mình như đã ghi cho mình trong Điều 4. Chính Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã phải nhận định sư hư hỏng của Đảng hiện nay đã đến mức
thách thức sự tồn vong của Đảng và của hệ thống chính trị.
Với thực tế của cuôc sống đất nước 37 năm nay như vậy, và
với nhận định của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng về thực trạng tha hóa hiện nay
như vậy của Đảng, xin hỏi: Điều 4 còn lý lẽ gì để tồn tại?
Điều 4 trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi lần
này được chỉnh sửa chút ít, đó là Đảng “chịu
sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định
của mình”.
Đọc lại tất cả các văn bản Đại hội Đảng từ
Đại hội IV (1976), có lúc nào Đảng không nhấn mạnh chịu sự giám sát của nhân
dân, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình… Trong toàn bộ hoạt động của Đảng kể từ
khi thành lập, có lúc nào Đảng không cam kết trách nhiệm của mình trước đất
nước, trước nhân dân? Sự cam kết trách nhiệm như vậy chính là tiền đề và là lẽ
tất yếu cho sự ra đời và tồn tại của Đảng, vì thế nó không cần và không phải
chờ đến khi phải được đưa vào Hiến pháp mới được thực hiện. Vì thế lúc nào cũng
chỉ có vấn đề Đảng thực hiện được hay không cam kết của mình đối với đất nước
mà thôi.
Nhìn nhận kết quả đợt vận động tự phê bình
và tự phê bình được phát động từ Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và sự xin lỗi
chân thành của Bộ Chính trị trước nhân dân mà cả nước đã được nghe, hiển nhiên
sẽ thấy: Việc bổ sung thêm chi tiết
nói trên vào Điều 4 hoàn toàn không có khả năng xoay chuyển tình thế đất nước,
bởi vì tư duy và đường lối của Đảng, hệ thống chính trị hiện hành, vị thế độc
quyền toàn trị của Đảng đứng trên tất cả còn nguyên vẹn.
Chi tiết bổ sung như thế vào Điều 4 chỉ chứng minh: Đảng
quyết cố thủ.
Hiến pháp 1992
có nhiều Điều, Khoản đúng, tốt về các quyền công dân cơ bản – như quyền sở hữu,
các quyền về tự do, dân chủ và quyền con người…, về các quyền và nghĩa vụ của
các bộ phận thuộc hệ thống nhà nước, vân vân…
Tuy nhiên, thực tế là hầu hết những Điều,
Khoản đúng và tốt này không được và không thể thực thi, hiện tượng vi hiến ngày
càng nhiều và nghiêm trọng trong đời sống đất nước ở mọi cấp và mọi nơi; chủ
yếu vì các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
(a) Hiến pháp có một số Điều được thiết kế
không dứt khoát.
(b) Có một số Điều và Khoản trên thực tế là
ngược hay phủ định nhiều Điều và Khoản khác trong Hiến pháp, hoặc gần như là
phủ định toàn bộ Hiến pháp – trước hết chính là Điều 4, những Điều và Khoản về
đất đai (rõ nét nhất là vấn đề “quyền sở hữu toàn dân” về đất đai…), về kinh tế
quốc doanh… Đấy là nói về nội dung Hiến pháp 1992.
(c) Ngoài ra còn phải kể đến nguyên nhân thứ 3 vô cùng
quan trọng và quyết định hàng đầu, đó là hệ thống quyền lực không coi trọng
Hiến pháp, và ngay từ đầu trong hành động thực tế là bác bỏ nguyên tắc Hiến pháp là quyền lực tối thượng
của quốc gia, chỉ sử dụng Hiến pháp ở những chỗ và những lúc khi quyền lực
cần..
Trong tình hình như vậy, nếu không có các chi tiết bổ sung cho Hiến pháp 1992 sửa đổi đủ sức
mạnh khắc phục cả 3 nguyên nhân nói trên, việc sửa đổi Hiến pháp 1992 sẽ trở
nên vô nghĩa.
Và rõ ràng không có phép lạ nào viết ra
được những chi tiết bổ sung có đủ sức mạnh như thế, ngoài việc viết ra Hiến
pháp mới.
Giả định rằng có phép lạ viết ra được Hiến
pháp mới hoàn hảo đến tuyệt đỉnh, song vẫn giữ nguyên Đảng với tư duy, tổ chức,
vị thế, quyền lực, cùng với bộ máy chuyên chính tinh thần và bộ máy chuyên
chính bạo lực của nó hiện nay như thế trong quốc gia, trong hệ thống nhà nước,
trong kinh tế và trong đời sống văn hóa – xã hội.., gọi tất cả những thứ này
dưới một cái tên chung tổng hợp là hiện tượng “đảng hóa”, Hiến pháp mới cũng sẽ chỉ có giá trị trang trí.
Có thể kết luận ngay: Sửa đổi Hiến pháp dù
có thể làm tốt thế nào đi nữa, mà Đảng vẫn giữ nguyên đảng hóa và không thay đổi, sẽ vô ích.
Khi còn đương chức, cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt là người nhiều lần phê
phán kịch liệt hiện tượng đảng hóa
như thế. Sự phê phán này tổng hợp nhất và rõ nét nhất được nêu trong bức thư
ngày 09-08-1995 gửi Bộ Chính trị.
Trong thư này, Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt
vấn đề: (1) phải nhìn nhận lại thế giới, (2) phải đánh giá lại đường lối phát
triển đất nước, (3) phải xây dựng nhà nước pháp quyền, (4) phải xây dựng lại
Đảng về đường lối và về tổ chức. Cả 4 đòi hỏi nêu trong thư này đến hôm nay vẫn
còn nguyên giá trị và mức độ bức xúc khẩn thiết của nó.
Những năm cuối đời, Cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt đã dành hết tâm huyết mình nhiều lần viết và nói trực tiếp với từng ủy
viên Bộ Chính trị và toàn thể Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN, và nói với toàn
dân: Phải từ bỏ mọi thứ chủ nghĩa,
Đảng phải tự lột xác để trở thành đảng của dân tộc.
Nhân việc nhắc đến bức thư quan trọng này,
xin cho phép hỏi trực tiếp trên ba triệu đảng viên của Đảng hôm nay: “Đảng CSVN hôm nay có còn cách
nào phục vụ lợi ích quốc gia tốt hơn không? Có đảng viên nào hôm nay dám nói
mình yêu Đảng, bảo vệ Đảng hơn đảng viên Võ Văn Kiệt không?”
Nếu lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay
thành tâm mong muốn sửa đổi Hiến pháp lần này để cứu Đảng, cứu nước, nhất thiết
phải đặt vấn đề cải cách thay đổi Đảng gắn kết hữu cơ với việc sửa đổi Hiến
pháp trong tổng thể nhiệm vụ cải cách chính trị canh tân đất nước, đúng với
tinh thần và nội dung như vừa trình bầy trên.
II
Sau 27 năm đổi mới, kinh tế đất nước đã
hoàn thành thời kỳ phát triển ban đầu – thời
kỳ phát triển theo chiều rộng. Song hiện nay, vì nhiều sai lầm và những
yếu kém nhiều mặt trong quá trình phát triển này, nhất là những sai lầm trong
đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng và sự tha hóa của hệ thống chính trị, kinh
tế nước ta chưa hội đủ mọi điều kiện phải có, để sẵn sàng đi vào thời kỳ phát triển
mới cao hơn: Thời kỳ phát triển theo chiều sâu.
Từ 5 năm nay đất nước lại lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội toàn diện, đất nước chưa bao
giờ đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức bức xúc như bây giờ, nhất là trong
một thế giới đang bước vào một thời kỳ phát triển mới với nhiều diễn biến khó
lường..
Việc Trung Quốc đang trở thành siêu cường
tác động nghiêm trọng vào trật tự thế giới hiện hành, và đồng thời thách thức
gay gắt tất cả các nước láng giềng. Nhiều tác động tiêu cực của siêu cường đang
lên Trung Quốc đang gây ra những vấn đề phức tạp mới như giành giật thị trường,
vi phạm luật chơi chung, lôi kéo và tập hợp lực lượng (bao gồm cả chính trị,
tôn giáo, sự can thiệp của quyền lực mềm…)… trong nhiều khu vực trên thế giới,
lại trong thời kỳ tình hình thế giới đi vào một thời kỳ phát triển mới phức
tạp, do đó hiện tượng siêu cường Trung Quốc đang lên trở thành vấn đề của cả
thế giới trên nhiều phương diện. Đặc biệt là tính xung đột quyền lực siêu cường
mang tịnh văn hóa Đại Hán tập trung vào khu vực châu Á, nhất là Đông Nam Á, vấn
đề Trung Quốc càng trở nên đặc biệt nhạy cảm và nguy hiểm, nhất là đối với các
nước nhỏ trong khu vực.
Với tính cách là chướng ngại vật tự nhiên
đầu tiên nhất thiết phải khuất phục đối với siêu cường Trung Quốc trên đường
của nó vươn ra Biển Đông, Việt Nam là nước bị uy hiếp nghiêm trọng nhất. Và
chưa thể nói lãnh đạo của đất nước đã lường hết mọi nguy hiểm của sự uy hiếp
này, thậm chí có không ít biểu hiện lúng túng, khiếp nhược.., càng không thể nói
lãnh đạo của đất nước đã sẵn sàng phát huy tối đa sức mạnh toàn dân tộc trước
thử thách mất còn này đối với đất nước…
Trong khi đó đất nước đang có nhiều khó
khăn hiểm nghèo: Kinh tế khủng hoảng cơ cấu sâu sắc chưa có lối ra; những bức
xúc và bất công xã hội vì tự do dân chủ bị đàn áp khiến lòng dân ngày càng phân
tán; những lúng túng, không nhất quán hay không rõ ràng trong đối sách của lãnh
đạo đối với Trung Quốc càng làm cho nhân dân mất tin tưởng; Đảng lãnh đạo lại ở
trong thời kỳ thoái hóa nghiêm trọng nhất trong lịch sử của mình về chính trị
và tính tiền phong chiến đấu, và hệ thống chính trị đang tha hóa trầm trọng.
Có thể nói sau 37 năm độc lập thống nhất,
chưa bao giờ đất nước lâm nguy như bây giờ, Đảng yếu kém như bây giờ.
Giải quyết những khó khăn nội tại để mở ra
một thời kỳ phát triển cho đất nước, tạo sức mạnh đối xử thành công mối quan hệ
với Trung Quốc với tư cách nước ta là một đối tác được tôn trọng chứ không phải
là một nước lệ thuộc hay một chư hầu kiểu mới, nhất là để Việt Nam không một
lần nữa và vĩnh viễn không bao giờ trở thành chiến địa cho sự tranh hùng của
các siêu cường, nắm bắt cơ hội chưa từng có trong bối cảnh quốc tế hôm nay làm
cho Việt Nam hưng thịnh trở thành một thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế
dấn thân cùng với cả nhân loại tiến bộ, vì hạnh phúc và phát triển của chính
quốc gia mình và của cả thế giới… Làm sao Việt Nam có thể thực hiện được những
nhiệm vụ sống còn và có ý nghĩa vô cùng trọng đại ấy, nếu đất nước không có một
thể chế chính trị dân chủ, thực hiện được hòa giải đoàn kết dân tộc, phát huy
tối đa sức mạnh dân tộc, tranh thủ được sự hậu thuẫn của tất các các quốc gia,
các lực lượng tiến bộ trên thế giới – kể cả trong lòng nhân dân Trung Quốc?
Tất cả những vấn đề nghiêm trọng sống còn
đối với đất nước vừa trình bầy trên làm sao xử lý thành công được, nếu đất nước
không có một thể chế chính trị dân chủ, thực hiện được hòa giải đoàn kết dân
tộc, để cả nước làm được những việc phải làm, cho bây giờ và cho mãi mãi về
sau?
Tất cả những vấn đề nghiêm trọng sống còn
vừa nêu trên chẳng lẽ không mảy may liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp hiện
nay?
Chẳng lẽ ĐCSVN hôm nay không còn đủ tính
tiền phong chiến đấu, để nhận thức được những vấn đề sống còn như thế đang đặt
ra cho đất nước, không có trí tuệ và ý chí bắt tay vào nhiệm vụ phải làm như
Đảng đã từng làm khi tiên phong khai phá con đường cứu nước?
Đảng phải tìm cho mình câu trả lời: Làm hay không làm? Làm thế nào?
Trả lời thế nào, Đảng tự phơi bầy mình ra là thế nấy, chẳng có thế lực thù địch
nào xuyên tạc nổi.
Còn nhân dân – qua không biết bao nhiêu
kiến nghị, thư, lời kêu gọi… gửi cho Đảng… ít nhất từ 3 Đại hội Đảng toàn quốc
liên tiếp cho đến nay – nghĩa là từ 15 năm nay – đã đặt ra cho mình những câu
hỏi đúng, các câu trả lời đúng.
III
Đề nghị của người viết bài này với nhân dân và các vị
lãnh đạo Đảng và Nhà nước
Có thể vì không thấy hết tầm vóc các việc
phải làm cho sửa đổi Hiến pháp, hoặc là bị khuôn vào những nguyên tắc chỉ đạo
của Tổng bí thư như sửa gì thì cũng
phải trong khung khổ Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, quyền lực của hệ thống chính
trị là thống nhất, không có tam quyền phân lập, gác lại vấn đề sở hữu đất đai..,
nên kế hoạch sửa đổi Hiến pháp như đang tiến hành vừa sơ sài về nội dung, (nặng
về hình thức, chiếu lệ và không đi vào thực chất), coi như chẳng liên quan gì
đến những nhiệm vụ trọng đại và nóng bỏng của đất nước trong giai đoạn hiện tại
và xa hơn nữa, vừa không được bố trí đủ thời gian công sức lẽ ra phải đầu tư…
Làm như thế làm sao mong được kết quả thực chất?
Hơn nữa, chỉ đạo như thế là đứng trên, là ban cho, là ông chủ của
nhân dân, là đứng trên Hiến pháp mất rồi!
Ai mà không hiểu Hiến pháp viết như thế nào
là quyền của nhân dân chứ! Lãnh đạo ở đây chỉ có một nghĩa, một nội dung duy
nhất là giúp người dân có tri thức và quyền năng thực hiện tốt nhất quyền chủ
nhân ông đất nước và sự lựa chọn của họ. Làm khác đi là ốp, là cưỡng bức.
Cũng nhân đây xin nói ngay, hàng ngày Bộ
Chính trị có không ít những chỉ đạo như thế.
Có ít nhất 3 thiếu sót quan trọng cần chú ý
khắc phục ngay trong quá trình tiến hành sửa đổi Hiến pháp lần này:
(1) Thiếu hẳn khâu chuẩn bị cho nhân dân,
ví dụ không thông tin thông báo cho nhân dân:
- thực trạng đất nước, những thách thức và
đòi hỏi cho giai đoạn phát triển mới, để suy nghĩ Hiến pháp sửa đổi lần này cần
phải thiết kế như thế nào, phải đáp ứng thế nào những yêu cầu mới của đất nước
về đối nội, đối ngoại, phát triển…
- gợi ý những vấn đề trọng đại nào trong
Hiến pháp cần tập trung huy động trí tuệ và lấy ý kiến của nhân dân, hướng kiến
nghị sửa đổi của Ban soạn thảo…
- vân vân…
(2) Về phía Đảng cũng coi việc sửa đổi Hiến
pháp là một công việc cắt rời như đã cài sẵn trong lập trình để ở máy tính,
nghĩa là chẳng dính dáng gì đến việc phải cải cách hay thay đổi Đảng như thế
nào. Mà như thế, như đã nêu trong phần II: giả thử Hiến pháp được sửa thật tốt
thế nào đi nữa, nhưng nếu hệ thống chính trị vẫn y nguyên, cái gì sẽ chờ đợi
đất nước?
(3) Hầu như không có sự chuẩn bị gì cho
việc nâng cao dân trí và quyền năng của nhân dân, để nhân dân có thể làm tốt
quyền và nghĩa vụ công dân của mình trong việc góp ý kiến vào Hiến pháp, trong
việc thực hiện quyền phúc quyết… Cũng xin nói ngay, không thực hiện nghiêm túc
với chất lượng cao quyền thảo luận tham gia ý kiến và quyết định (nhất là đối
với những vấn đề quan trọng), quyền phúc quyết của nhân dân, Hiến pháp sửa đổi
hay Hiến pháp mới sẽ giảm hẳn giá tri cũng như khả năng thực thi.
Quá trình soạn thảo sửa đổi Hiến pháp hay
xây dựng Hiến pháp mới lẽ ra nhất thiết còn phải là lúc làm cho cả nước có cơ
hội học tập để nâng cao hiểu biết, nâng cao quyền năng của công dân, giác ngộ
nhân dân những vấn đề trọng đại của đất nước, gắn bó người dân hơn nữa với vận
mệnh đất nước… Nhà nước pháp quyền chính đáng nào mà lại không mong muốn công
dân của mình có trình độ giác ngộ cao nhất?
Vân vân…
Ngoài ra, cá nhân người viết bài này xin có
những đề nghị như sau:
1. Nếu chỉ sửa đổi sơ sơ như dự thảo đã
công bố, thì nên tạm dừng lại chưa đi tới phần kết thúc như thời khắc biểu đã
định, riêng việc lấy ý kiến nhân dân phải tiến hành có chất lượng và nên kéo
dài tới cuối năm 2013, để có thời gian bổ khuyết 3 việc còn sót chưa làm nói
trên.
2. Trong khoảng thời gian kéo dài thêm, nên
thực hiện ngay một số Điều đúng, đã có sẵn trong Hiến pháp 1992, như các Điều
quy định các quyền về tự do, dân chủ của công dân, quyền con người, về tự do
ngôn luận, về báo chí..; đình chỉ ngay mọi hoạt động có tính chất khủng bố,
trấn áp, hay đàn áp nhân dân, thả ngay những người bất đồng chính kiến đang
phải thụ án tù hay đang bị xét xử, làm ngay một số việc khác như 71 trí thức đã
nêu trong kiến nghị ngày 06-08-2012.
3. Bãi bỏ việc sửa đổi Hiến pháp theo kiểu
chắp vá như đang làm, đặt vấn đề xây dưng Hiến pháp mới lần này là một
trong những bộ phận quan trọng nhất của chương trình cải cách triệt để và toàn
diện chế độ chính trị của đất nước.
4. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước phát huy trí
tuệ và tâm huyết cả nước xây dựng chương trình cải cách toàn diện hệ thống
chính trị, kế hoạch và lộ trình thực hiện. Thông qua cuộc cải cách chính trị
này Đảng thực hiện cải tổ lại chính mình cả về đường lối, về tổ chức để trở
thành Đảng của dân tộc phù hợp với những tiêu chí của một nhà nước pháp quyền
dân chủ.
5. Thông qua cải cách chính trị lần này
Đảng trang trải hai món nợ, hai nhiệm vụ lịch sử đối với nhân dân, đối với tổ
quốc mà Đảng đã để trễ 37 năm sau khi đất nước độc lập thống nhất:
- Xây dựng một thể chế chính trị dân chủ của nhà nước
pháp quyền để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Thực hiện hòa giải đoàn kết dân tộc để phát huy tối
đa sức mạnh toàn diện của đất nước.
IV
Vài suy
nghĩ thay lời kết
Qua cải cách chính trị lần này, một nước
Việt Nam dân chủ ra đời[2] từ nước Việt Nam độc lập
thống nhất kể từ 30-04-1975 – nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam – đấy sẽ
là sự đổi đời của chính nước ta, để từ nay và mãi mãi mở mày mở mặt cùng đi
được với cả thiên hạ, để có khả năng là bạn và là đối tác được tôn trọng của cả
thiên hạ. Song sự kiện này sẽ làm thế giới chấn động, vì nó góp phần củng cố
hòa bình, có lợi cho hợp tác và cùng phát triển ở Đông Nam Á, với nhiều ảnh
hưởng lan tỏa rất khích lệ cho cái thiện, cái tốt ở mọi nơi. Có thể nói ngay,
cả thế giới sẽ vui mừng với chúng ta – trong đó có không ít những bộ phận nhân
dân trong lòng đất nước Trung Quốc. Còn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chắc chắn
sẽ không như thế. CHNDTH sẽ như thế nào, điều này còn tùy thuộc vào nhiều thứ
dễ thấy ngay từ bây giờ… Song việc nước ta phải làm thì nước ta cứ phải làm, đủ
sức làm, và làm được, chẳng lẽ cứ phải ngó nghiêng hay xin phép Trung Quốc? Mà
dù ta có ngoan ngoãn, ngó nghiêng hay xin phép… chắc gì được yên thân? Khi cần
và thấy trên bàn cờ quốc tế là có thể – bất kể là ta yếu hay mạnh, cương hay
nhu, ngoan hay bướng… – thì CHNDTH vẫn sẵn sàng ra tay đối với ta, lần nào cũng
rất rắn. Chiếm Hoàng Sa của ta năm 1974 là như thế, cuộc chiến tranh Campuchia
và cuộc chiến tranh đánh ta tháng 2-1979 là như thế, lấy thêm một số đảo của ta
ở Trường Sa năm 1988 là như thế, bây giờ đang muốn lấn chiếm ta tiếp trên Biển
Đông cũng là như thế – giữa lúc ta vẫn đang gồng lên nhẫn nhục gìn giữ đại cục, 4 tốt và 16 chữ đấy
thôi!..
Nhưng nếu ta không quyết tâm đổi đời đất
nước lần này, chắc chắn nước ta sẽ rơi sâu hơn nữa không có lối thoát vào con
đường nô dịch của siêu cường Đại Hán như đã vương vào từ Hội nghị Thành Đô năm
1990 đến nay gỡ chưa ra. Không chỉ có thế, rơi vào vòng tay Trung Quốc, nước ta
một lần nữa sẽ trở thành chiến địa mới của nhiều nước, nội chiến cũng sẽ nổ ra
trong lòng tổ quốc chúng ta!
Song làm sao thực hiện được cuộc đổi đời
như vậy của đất nước, nếu không có sức mạnh của trí tuệ và từ trong tâm huyết
và ý chí của hòa giải đoàn kết dân tộc?
Cần nói thẳng thắn với nhau hòa giải đoàn
kết dân tộc như thế đến nay vẫn hầu như là không thể, nhưng lại là đòi hỏi tất
yếu, là đòi hỏi đầu tiên để đổi đời đất nước.
Làm sao có thể thực hiện được sự hòa giải
đoàn kết dân tộc như thế đã để muộn mất 37 năm rồi, nếu không có một thể chế
chính trị dân chủ của đất nước làm cái nôi sinh thành và nuôi dưỡng nó?
Về ĐCSVN tôi muốn nói thế này: Chắc chắn
người Việt Nam nào có ý thức với đất nước đều thiết tha mong mỏi một cuộc đổi
đời của đất nước như vậy. Đấy chính là cái đích ngàn đời mà vì nó cả nước đã đi
theo Đảng bước vào Cách mạng Tháng Tám. Chẳng lẽ nào bây giờ đứng trên đỉnh cao
của quyền lực, Đảng không còn khả năng nhận ra cái đích này? Và chỉ vì thế, có
phải là Đảng muốn tự chọn con đường đối kháng với cái đích ngàn đời mong ước
này của dân tộc hay không?
Không ai có thể thay Đảng trả lời câu hỏi
này.
Bốn cuộc chiến tranh, khoảng 7 triệu sinh
mạng người dân nước ta (có số liệu nói 10 triệu) bị cướp đi, cùng với biết bao
nhiêu tổn thất khác không bao giờ lấy lại được nữa, những vết thương trong lòng
dân tộc như đang muốn không bao giờ lành lại nữa, gần một nửa thế kỷ[3] đất nước chìm đắm trong
khói lửa giữa lúc thế giới đi lên đỉnh cao phát triển mới, rồi những sai lầm đổ
vỡ do chính tự tay ta bên này và bên kia gây nên…
Chừng nấy mất mát và đau thương còn chưa đủ
hay sao nếu để xảy ra đổ vỡ nồi da xáo thịt một lần nữa?
Chừng nấy mất và đau thương còn chưa đáng
để toàn dân tộc ta nắm tay nhau hòa giải và cùng nhau bước về phía trước?
Chừng nấy mất mát và đau thương không đáng
để cho mỗi người Việt chúng ta khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, cùng
đoàn kết giúp nhau dấn lên, đổi đời chính mình, và đổi đời của đất nước hay
sao?
Cuối cùng, xin nói lời đề nghị quan trọng nhất:
Tôi thiết tha mong từng người dân Việt
chúng ta học lại quá khứ của chính mình, của đất nước – học tất cả, để hiểu
những điều tốt và xấu, thành và bại, ác và thiện, cái ngu dốt và sự minh triết,
sự thù hận và lòng khoan dung… Không chờ và không cần ai ban bảo mình hay nhồi
nhét cho mình học cái gì! Mà hãy đem tất cả nỗi thương đau của chúng ta về số
phận đất nước, đem tất cả ý chí của mình mong mỏi đổi đời đất nước, để tự tìm
tòi học lại tất cả những cái phải học, học thêm những cái mới…
Xin hãy học tất cả những điều phải học như thế, trước hết
để chiến thắng chính mình, chiến thắng nỗi sợ và những yếu kém của mình. Học
như thế để đổi đời của chính mình và quyết tâm cùng nhau đổi đời đất nước.
Bởi vì: Thực hiện bằng được hòa giải dân tộc để cứu tổ
quốc đang lâm nguy, mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước là trách
nhiệm thiêng liêng không của riêng một ai trong cộng đồng dân tộc Việt Nam
chúng ta!
Nguyễn Trung
Hà Nội – Võng Thị, ngày 14-01-2013
[1] Xin đừng lúc nào quên
một thời nhân dân dành cho Đảng quyền lãnh đạo, song chưa bao giờ có chuyện
nhân dân của một nước độc lập dân là chủ lại dành cho Đảng quyền lực cai quản
đất nước, Đảng cũng chưa bao giờ dám ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình
việc giành quyền lực như thế – vì sẽ danh không chính ngôn không thuận, mặc dù
Đảng làm việc này với tất cả.
[2] Tôi không dám lạm bàn về
tên gọi của quốc gia, vì đấy sẽ là quyền của nhân dân, khi nào được hỏi tôi sẽ
nói đề nghị của mình.
[3] 1945 –1989, khi kết thúc
chiến tranh Campuchia.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 14-1-13
No comments:
Post a Comment