Lê Minh Đức - Dân Việt Online
15/01/2013
| 11:17
Dân Việt - Trong
cuộc gặp với bạn bè mới đây, nhà báo Lưu Đình Triều, công tác tại báo Tuổi Trẻ
TP.HCM đã phản ứng gay gắt những chi tiết có liên quan đến mình trong cuốn “Bên
thắng cuộc” của Huy Đức
Theo
ông Lưu Đình Triều, tác giả Huy Đức đã cắt xén và trích dẫn không đầy đủ những
lời tâm sự về cuộc đời ông. Cũng theo ông Triều, những ngày qua, ông sống rất
khổ tâm vì phải giải thích cho gia đình, cơ quan, bạn bè hiểu rõ đầu đuôi câu
chuyện
Ông
Triều nói: “Mấy đứa em của tôi ở Hà Nội khi đọc cuốn sách này đã trách ông sao
nặng lời với cha mình (nhà báo Lưu Quý Kỳ) như vậy. Nhưng sự thật tôi đã có
nhiều câu nhận xét cao đẹp về cha mình, nhưng tác giả cuốn sách đã không đưa
vào”.
Để
chứng minh những phản ứng của mình là đúng, ông Triều cho biết, cuối tháng
4.2010 ông đã trả lời phỏng báo Thế giới & Hội nhập, một ấn phẩm của báo
Nông thôn Ngày nay, về cuộc đời ông trước, trong và sau 1975.
Về
chi tiết liên quan đến mình trong “Bên thắng cuộc”, ông Triều nói, chính xác
như tôi đã trả lời phỏng vấn TG&HN là: "…Sau này khi tôi đang học tập
cải tạo, ba tôi vào Sài Gòn công tác được Trưởng trại mời lên bàn chuyện bảo
lãnh. Ông từ chối và muốn tôi có thời gian học tập, rèn luyện như những người
khác. Ông cũng từ chối sự ưu ái được thăm con không theo quy định mà chỉ viết
một lá thư nhờ chuyển. Đến giờ tôi vẫn nhớ như in là mình đã cầm lá thư chạy ra
vườn rau, lặng lẽ vừa đọc thư vừa khóc. Tôi giận, thầm trách ba tôi đã không
thương tôi, lại bỏ tôi bơ vơ như thuở nào…Tôi đã xé là thư ấy để rồi mãi sau
này mới cảm nhận ra rằng đó là một cách thương con, rèn con của riêng ba tôi…”
Cũng
trong bài trả lời phỏng vấn TG&HN, nhà báo Lưu Đình Triều đã kể lại chuyện
thi đậu vào trường báo chí Hà Nội, dù dư điểm nhưng phải chờ ý kiến của ban
lãnh đạo Ban Tuyên huấn trong đó có kèm cả lời bảo lãnh của cha ông.
Được
biết năm 1954, ông Lưu Quý Kỳ, nguyên vụ trường vụ báo chí (Ban Tuyên huấn
Trung ương), Tổng thư ký Hội nhà báo Việt Nam rời miền Nam tập kết ra Bắc.
Trong thế sự rối ren ấy, ông buộc lòng để lại 2 đứa con ở miền Nam. Một trong
hai người con đó là ông Lưu Đình Triều. Năm 1972, ông Triều bị bắt đi quân dịch
và bị đưa vào Trường dự bị sĩ quan Thủ Đức của chính quyền Sài Gòn.
Ngày
giải phóng ông đã được đoàn tụ gia đình và như bao người lính khác, sau khi học
tập cải tạo trở về ông đã hòa nhập với cuộc sống mới và được cất nhắc lên đến
vị trí Tổng thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ .
Minh
Đức
Lê Minh Đức - Dân Việt Online
15/01/2013
| 13:52
Dân
Việt - "Tôi giận, thầm trách ba tôi đã không thương tôi, lại bỏ tôi
"bơ vơ" như thuở nào… Tôi đã xé lá thư ấy để rồi mãi sau này mới cảm
nhận ra rằng đó là một cách thương con, rèn con của riêng ba tôi".
LTS:
Cuối tháng 4.2010, nhà báo Lưu Đình Triều, công tác tại báo Tuổi trẻ TP.HCM
đã trả lời phỏng vấn báo Thế giới & Hội nhập, một ấn phẩm của báo
Nông thôn Ngày nay, về cuộc đời ông trước, trong và sau 1975. Theo ông Lưu
Đình Triều, trong cuốn sách "Bên thắng cuộc", tác giả Huy Đức đã cắt
xén và trích dẫn không đầy đủ những lời tâm sự về cuộc đời ông. Cũng theo ông
Triều, những ngày qua, ông sống rất khổ tâm vì phải giải thích cho gia đình, cơ
quan, bạn bè hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện.
Báo
điện tử Dân
Việt đăng tải lại toàn bộ bài phỏng vấn của nhà báo Lê Minh Đức với ông Lưu
Đình Triều trên báo Thế giới & Hội nhập tháng 4.2010.
*
Phần 1. Đứa con bên kia chiến tuyến
Năm
1954, ông Lưu Quý Kỳ - nguyên Vụ trưởng Vụ Báo chí (Ban Tuyên huấn Trung ương),
Tổng thư ký Hội Nhà báo Việt Nam rời miền Nam tập kết ra Bắc. Trong thế sự rối
ren lúc ấy, ông buộc lòng để lại 2 đứa con ở miền Nam và thầm mong 2 năm sau sẽ
quay trở lại. Nhưng sự bội ước của chính quyền Ngụy và Mỹ đã khiến cho ngày trở
về kéo dài đến 21 năm. Một trong hai người con ấy là nhà báo Lưu Đình Triều.
Cha mẹ tập kết ra
Bắc để anh và một người chị ở lại miền Nam. Chuyện gì đã diễn ra sau đó cho tới
ngày 30.4?
-
Hai mươi mốt năm tất nhiên là nhiều chuyện. Tôi tạm gói gọn thành câu chuyện
dài 7.600 ngày mồ côi. Nói mồ côi vì trong tờ khai sanh của tôi hồi ấy ghi rõ
"cha chết, mẹ chết". Ngoại tôi xuống Cà Mau (khu căn cứ kháng chiến)
đón hai cháu về nuôi ở Biên Hòa. Bà là một phụ nữ đơn thân, nghèo khó, chỉ chạy
chợ kiếm sống qua ngày. Có thêm 2 cháu nhỏ bà càng cực nhọc, vất vả hơn. Lúc
xuống miền Tây mua khô, cá... về bán. Lúc lên chợ Gò Dầu, Tây Ninh mua nhang,
dầu Miên, xà bông về bỏ mối, kiếm ít tiền lời.
Những
ngày ngoại đi vắng, hai chị em dựa vào sự đùm bọc của họ hàng bên ngoại cùng bà
con lối xóm. Như cây hoang, cỏ dại, những năm tháng tuổi thơ của tôi cứ lần
lượt trôi qua. Bạ ai chơi đó, bạ đâu ăn đấy. Bảy, tám tuổi tôi đã theo bạn bè
trong xóm ra chợ "đá cá lăn dưa" (ăn cắp vặt)... Lớn hơn chút nữa đã
biết lận lưng bộ bài nhỏ xíu đi đánh cắc-tê kiếm tiền ăn bánh mì, uống xirô...
Nghe sặc mùi hư hỏng
như thế vì sao anh vẫn vào được đại học?
-
Đúng là tôi có thể trở thành một kẻ lêu lổng bụi đời nếu như không may mắn gặp
được các cô chú bên nội. Chú tôi là hiệu trưởng, cô tôi là giáo viên của trường
tiểu học lớn nhất thành phố Buôn Ma Thuột. Cô chú đã đón hai chị em lên đấy.
Một giai đoạn mới trong đời tôi thật sự mở ra từ sinh hoạt cho đến học hành.
Tôi bắt đầu làm quen với việc đánh răng, ăn sáng trước khi đến trường, cũng như
ủi quần áo thẳng nếp khi đến lớp. Ngoài giờ học, tôi không còn được chạy rong
ngoài đường phố mà ru rú trong nhà phụ làm những việc linh tinh, rồi ôn tập bài
vở, đọc truyện dưới sự chỉ dạy của cô…
Thế
nhưng như cách nói của ngoại "phần số của ngoại chắc bị nặng nợ với hai
đứa con...". Chỉ ba năm sau, chú tôi bị động viên vào lính, còn cô lấy
chồng là công nhân ở Sài Gòn, chị em tôi lại thu xếp đồ đạc quay về Biên Hòa.
Cảnh cũ, điều kiện sống như cũ, nhưng trong chúng tôi có một thay đổi lớn là
sức học căn cơ hơn. Và năm 1971 tôi bước chân vào Đại học Luật. Hồi ấy ngoại
tôi mừng đến chảy nước mắt. Bà có ngờ đâu niềm vui ấy rồi bị tắc nghẽn nhanh
chóng.
Năm
1972, trước sự tiến công mạnh mẽ của quân giải phóng, lực lượng quân đội Sài
Gòn hao tổn khá nặng. Chính quyền Thiệu tạm đóng cửa các trường đại học, hạ bớt
tuổi được hoãn quân dịch của sinh viên. Tôi giờ mới nhận ra bi kịch trong
chuyện làm giấy Thế vì khai sinh ngày trước. Với cái tuổi giả lớn hơn tuổi thật
dù chỉ một tuổi cũng đủ buộc tôi ngưng học.
Ngoại
tôi lại có những đêm mất ngủ: "Ông trời sao quái ác, đẩy thằng Triều vào
cảnh cầm súng chống lại cha mẹ mình?!". Loáng thoáng trong vài lần trò chuyện
giữa ba bà cháu có nhắc đến chuyện trốn lính. Nhưng rồi với một chàng trai mới
lớn sống không lý tưởng, không quen cân nhắc thận trọng trước những vấn đề lớn
và sợ chuyện tù đày, tôi rơi vào tư tưởng yếm thế: thôi kệ, đến đâu thì đến
(!).
Sau
một thời gian huấn luyện ở Trường sĩ quan dự bị Thủ Đức, dù cận thị gần 4 diop
tôi vẫn bị tống về một sư đoàn bộ binh ở miền Tây. Đi qua những ngày nắng cháy
da, những đêm mưa ẩm ướt, những cuộc hành quân vất vả chán chường mà nhiều lúc
tôi chỉ mong ước khùng điên là được bị thương nặng đủ để giải ngũ, về đi học
tiếp.
Sau
một vài lần suýt chết, những vết thương mà tôi nhận lãnh lại chẳng khác gì
những cú leo trèo, té ngã thuở nhỏ. Nhưng dẫu sao chúng cũng giúp tôi cuối năm
1974 có cớ để xin chuyển về ngay Biên Hòa chăm lo cho người giám hộ (tức ngoại)
nay đã già. Để rồi vài tháng sau khi nghe tin xe tăng quân giải phóng đã về tới
Long Thành, tôi vội trút bỏ bộ đồ lính, ở luôn tại nhà.
Ngày thống nhất đất
nước cũng là ngày sum họp gia đình, tâm trạng của anh lúc đó như thế nào?
-
Những ngày đầu sau giải phóng tôi sống trong tâm trạng hai chiều. Vừa chán nản,
vừa hy vọng. Trong tôi lóe lên tia sáng cuối đường hầm là mình sắp nhìn thấy
những người ruột thịt nhất của mình. Suốt hai chục năm, phải nói thật lòng là
tôi thèm lắm - thèm thèm lắm - cái tiếng gọi "ba ơi, má ơi" và luôn
nặng trĩu mặc cảm về cách nói của một số người: cái thằng không cha không mẹ!
Khoảng
một tuần sau giải phóng, tôi "liều mạng" chạy xuống Sài Gòn, lân la
dò hỏi về ba tôi, nhà báo Lưu Quý Kỳ… Nhưng cũng có những lúc tôi hoang mang lo
sợ mình là thiếu úy ngụy nên có khi sẽ trở thành đứa con bị chối bỏ trong mắt
ba má tô i- những người cách mạng lâu năm.
Có
một chiều, tôi cùng những bạn học cũ, đứa là viên chức, đứa là lính gom tiền
lại mua bia về nhậu lần cuối. Cái cách tuyên truyền của chế độ cũ khiến tất cả
chúng tôi đã ngoài tuổi 20 rồi mà vẫn cả tin rằng với chính quyền mới sẽ không
có vui chơi, giải trí gì cả, nói chi đến chuyện bia bọt. Trong cuộc nhậu thực
tế không là lần cuối đó, cả đám thay nhau hé lộ những tin đồn quái chiêu đủ
dạng. Nghe cho đã, để rồi kết thúc, cả đám chia tay nhau với lời từ biệt bi
thương "mai rồi đời mình sẽ tiêu".
Mười
lăm ngày sau khi đất nước thống nhất, một chiếc Commăngca đổ kịch trước đầu hẻm
nhà ngoại. Tôi đã chạy đến cầm lấy cánh tay ba, mân mê, nhưng không dám ôm lấy
ông và cũng chẳng tiếng "ba ơi" nào bật ra trong nước mắt như bao lần
tôi đã nằm tưởng tượng .
Lúc
đó, trong tôi mặc cảm và nỗi lo sợ đang trào dâng, lấn át cả niềm vui, hạnh
phúc của sự hội ngộ…
Cha, mẹ của anh đã
nói gì khi biết anh tham gia vào quân đội Sài Gòn?
-
Lúc đầu, ba tôi chẳng hề chạm tới khối đá lý lịch đang nặng trĩu trong tôi. Để
rồi, có một tối, khi ba cha con đang trò chuyện chơi, bất chợt ba hỏi tôi là
đeo lon thiếu úy từ khi nào? Trước đó hai chị em có biết ba má là dân cách mạng
nòi không? Khi nghe tôi trả lời có lần đọc được bài viết của một nữ ký giả Ý có
nhắc đến ba ở Hà Nội, ba hỏi gặng, đã biết vậy mà sao con vẫn cầm súng chống
lại ba má?
Sau
khi nghe tôi nói đã từng bàn với ngoại chuyện trốn lính mà cũng chẳng biết trốn
nơi nào cho chắc ăn, không bị bắt, ba thở dài một cái và hé lộ rằng lúc Đà Nẵng
vừa được giải phóng, ba vào, gặp chú Dũng - em út của ba, chú kể chuyện tôi là
sĩ quan ngụy, ba đau lòng lắm. Về Hà Nội ba giấu má mấy ngày rồi mới nói thiệt.
Má tôi khóc suốt cả tuần... Ông kết thúc câu chuyện bằng lời dặn dò:
"Thôi, thương ba, thương má, từ rày về sau con cố ra sức học tập, rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống, chuộc lại lỗi lầm".
Sau
này khi tôi đang học cải tạo, ba tôi vào Sài Gòn công tác, được trưởng trại mời
lên bàn chuyện bảo lãnh. Ông từ chối và muốn rằng tôi có thời gian học tập, rèn
luyện như những người khác. Ông cũng từ chối sự ưu ái được thăm con không theo
quy định mà chỉ viết một lá thư nhờ chuyển. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in là
mình đã cầm lá thư, chạy ra vườn rau, lặng lẽ vừa đọc thư, vùa khóc. Tôi giận,
thầm trách ba tôi đã không thương tôi, lại bỏ tôi "bơ vơ" như thuở
nào… Tôi đã xé lá thư ấy để rồi mãi sau này mới cảm nhận ra rằng đó là một cách
thương con, rèn con của riêng ba tôi.
Đâu là bước rẽ quan
trọng để anh hòa nhập với chế độ mới?
-
Với tôi, 30.4.1975 là ngày đổi đời. Một bước ngoặt lớn mở ra về quan hệ gia
đình, về sự nghiệp. Hai mươi hai tuổi, coi như tôi đặt lại bước chân vào đời
lần 2.
Nghĩ
về một bước rẽ quan trọng nhất, thật tình tôi có sự băn khoăn trong xác định.
Ba tuần sau ngày giải phóng, một mình lặng lẽ tôi xách túi đến nơi tập trung
cải tạo với với bao dấu chấm hỏi về tương lai. Dẫu sao mặc lòng, lúc ấy, tôi tự
nhủ mình cần phải thẳng thắn đối mặt với thực tế khi bước vào khúc quanh của
đời mình dù có bằng bước chân cô đơn.
Những
ngày tháng học cải tạo, là thời gian giúp tôi có nhận thức đúng đắn hơn về đất
nước, về cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc, về những điều sai trái tôi đã
làm - dù là bị ép buộc. Trong trại, tôi có điều kiện hiểu thêm về những người
cộng sản, thông qua một anh quản giáo tên Lợi. Có những tối, anh xuống lán của
tôi ngồi tâm sự nhiều về đời anh, từ chuyện học hành cho đến chuyện yêu đương…
Anh cũng mạnh dạn bảo lãnh cho tôi được ra khỏi trại để gặp em gái tôi từ Hà
Nội vào thăm.
Những
giọt nước mắt chia sẻ của anh khi nhìn thấy hai anh em tôi ôm nhau khóc ròng
trong lần đầu trùng phùng, đã đeo bám dai dẳng trong đầu tôi. Cả chục năm sau
đó, tôi vẫn nhớ và viết về nhân vật này, một bộ đội trẻ, đảng viên, người giúp
tôi có cái nhìn đầy đủ hơn về tình người.
Chuyện
vừa học cải tạo ra, xin đi làm để rồi trở thành người biên chế của nhà nước
cũng là một ngã rẽ quan trọng. Rồi chuyện tôi thi đậu vào lớp đại học báo chí
của trường Tuyên huấn T.Ư cũng là một bước rẽ quan trọng không kém.
Lê Minh Đức - Dân Việt Online
15/01/2013
| 13:57
Dân
Việt - Sau 30.4, Lưu Đình Triều được nhập học khoa báo chí trường Tuyên huấn
Trung ương Đảng, sau đó anh về công tác tại báo Tuổi Trẻ TP.HCM.
Anh
từng trải qua chức vụ: trưởng ban thanh niên, trưởng ban văn hóa - văn nghệ,
tổng thư ký tòa soạn, anh nói, môi trường "không kỳ thị" ở báo Tuổi
Trẻ đã chắp cánh cho anh hòa nhập.
Trong thời điểm xã
hội còn kỳ thị với những người tham gia quân đội Sài Gòn, tại sao anh lại chọn
nghề báo, một công việc được xem là sứ mệnh chính trị?
-
Ngay sau khi học cải tạo xong, ba tôi và tôi đã có một cuộc trò chuyện thẳng
thắn. Ông hỏi tôi thích làm nghề gì, tôi trả lời: làm báo! Vì sao? "Vì từ
nhỏ đến lớn con có một niềm say mê riêng đối với báo chí. Con đã từng đi xếp
báo cho một sạp báo gần nhà chỉ để đổi lấy việc là được đọc nhiều loại báo miễn
phí. Đi học, con cũng say mê viết báo tường, giai phẩm của trường. Con định ghi
danh vào một trường báo chí của Sài Gòn, nhưng rồi không có đủ tiền đóng học
phí nên phải chuyển qua học Luật. Ngay cả khi đi lính, con vẫn hay viết bài,
làm thơ gửi các báo, tạp chí và cũng đôi lần được đăng…".
Không
ngờ ba tôi phán một câu lạnh lùng: "Con không đủ tiêu chuẩn để đi làm báo.
Là sĩ quan Sài Gòn con ăn chơi nhiều (oan cho tôi quá!) giờ phải đi làm công
nhân để cải tạo thêm lối sống của mình…
Vài
năm sau, khi đang làm ở Xí nghiệp Sắt tráng men - ở quận 8 TP.HCM, tình cờ đọc
báo thấy tuyển sinh lớp Đại học báo chí, niềm say mê cũ trong tôi trổi dậy.
Nhất là khi xem qua điều kiện dự thi, tôi thấy mình có đủ các tiêu chuẩn cơ bản
là tốt nghiệp trung học phổ thông, có ít nhất 3 năm biên chế, là đoàn viên ưu
tú (Trong thời gian làm nhà nước tôi nỗ lực tối đa trong công việc và phong
trào nên đã được kết nạp Đoàn vào năm 1978). Lúc ấy tình cờ ba tôi lại dẫn một
đoàn nhà báo nước ngoài vào công tác, tôi đến gặp và thưa với ông ý định của
mình. Khi ba tôi nhắc lại ý trước đây là tôi không đủ tiêu chuẩn, tôi đưa tờ
báo có đăng việc tuyển sinh ra và nói rằng con đã đủ chuẩn thì ông có phần hạ
giọng: tùy con, cứ nộp hồ sơ thử xem sao.
Tôi
nộp hồ sơ, đi thi và trúng tuyển nhờ sự… ngây thơ về chính trị của mình lúc ấy.
Dù dư điểm đậu nhưng tôi vẫn không được nhập học liền mà chờ ý kiến của lãnh
đạo Ban tuyên huấn, trong đó có kèm cả lời bảo lãnh của cha tôi: Đồng ý cho học
nếu đủ điểm đậu!.
Anh gặp khó khăn gì
trong quá trình học và sau đó gắn với nghề báo cho đến hôm nay?
Ta
đến muộn đừng lo Người vẫn đợi
Với Bác Hồ, Người thương nhất kẻ đi sau
Với Bác Hồ, Người thương nhất kẻ đi sau
Đó
là hai câu thơ của Hải Như mà tôi đã nắn nót ghi lại và dán trên bàn học ngay
kế giường ngủ của tôi trong trường. Nó đã động viên tôi rất nhiều trong những
năm đầu học tập. Chỉ cần một tuần sống và học trong một ngôi trường Đảng tôi đã
nhận ra sự bất lợi của mình như một lời nhận xét của bạn học mà tình cờ tôi
biết được. "Một sĩ quan ngụy mà vào được trường này chắc do dựa vào vị thế
của ông bố thôi". Nào ai biết chuyện tôi vào trường là một cuộc "đấu
tranh" nội tâm mà tôi nghĩ rằng cũng rất cay đắng giữa một ông cha thương
yêu con và một cán bộ cách mạng lâu năm muốn giữ sự nghiêm minh trong điều
hành.
Tôi
không thể thanh minh mà chỉ biết im lặng học và đọc thật nhiều để rồi kết quả
học tập là một lời bào chữa hiệu nghiệm nhất. Theo thời gian, tôi cũng có được
những người bạn học vừa chia sẻ vừa động viên những nỗ lực hòa nhập của tôi.
Suốt gần 5 năm học tôi dần "bình thường hóa" được vai trò học viên
của mình. Chỉ có một cú sốc cuối năm thứ hai: tôi được một số bạn đề cử vào BCH
chi đoàn. Một cuộc họp sôi nổi diễn ra, mổ xẻ gốc gác của tôi và cho rằng một
sĩ quan ngụy không thể nào lãnh đạo những người từng là chiến sĩ quân đội nhân
dân. Giữa cuộc họp, tôi không chịu đựng được nữa, phải xin phép đi ra ngoài.
Trời
mùa đông Hà Nội lạnh lẽo, tôi cứ bước đi mà không biết đi đâu và nước mắt cứ
lặng lẽ chảy ra. Đến khuya tôi quay về trường và sửng sốt khi thấy một đám
đông- trong đó có bí thư chi bộ kiêm chi trưởng của lớp đang đứng trước cổng
trường để chờ… an ủi tôi. Lòng tôi ấm lại. Niềm tin vào sự lựa chọn mới trong
tôi càng lóe sáng.
Ra
trường, tôi may mắn được sinh hoạt và làm việc cùng tập thểâ báo Tuổi Trẻ. Nơi mà gần như
không có sự phân biệt "kỳ thị" về gốc gác. Tôi thoải mái hành nghề
như bao đồng nghiệp. Tất nhiên, ở những năm 80 định kiến về người chế độ cũ vẫn
còn nóng bỏng, nên thỉnh thoảng một hai sai sót trong nghiệp vụ của tôi vẫn bị
đem soi rọi cùng cái "quá khứ đen" . Được cái, lần nào cũng có những
người bạn - có người từng hoạt động trong chiến khu, đứng cạnh, chia sẻ, động
viên tôi như đêm nào giữa trời đông Hà Nội. Do công việc, tôi được đi nhiều
nơi, từ Côn Đảo đến Điện Biên Phủ, Tân Trào, Trường Sa…
Tôi
cũng được tiếp xúc gặp gỡ nhiều người, từ anh bộ đội trên chiến trường biên
giới phía Bắc cho đến anh TNXP ở địa bàn Tây Nguyên… Chính những câu chuyện
nghe được từ các địa danh lịch sử, từ những người lao động, chiến sĩ bình
thường đã giúp tôi trưởng thành hơn rất nhiều trong vai trò một nhà báo.
35 năm sau ngày giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, anh nghĩ gì về "hòa hợp dân tộc"?
-
Mới đây, ngày 20.4.2010, Bộ Quốc phòng và Thành ủy TP Hồ Chí Minh đã tổ chức
hội thảo khoa học "Đại thắng mùa xuân 1975- sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
thời đại Hồ Chí Minh". Trong nhận thức của tôi, sức mạnh của sự đoàn kết
dân tộc có khởi nguồn từ sự hòa hợp dân tộc. Đây cũng là một truyền thống lâu
đời của Việt Nam. Sau ngày giải phóng không lâu, chính nguyên Thủ tướng Võ Văn
Kiệt cũng đã đề cập đến vấn đề này, khi nói "Những định kiến rồi sẽ phải
qua, nếu không thì cộng đồng dân tộc làm sao liền lạc, mạnh mẽ được" (Tuổi
Trẻ Cuối Tuần, 31-5-2009).
35
năm đã trôi qua! Tôi tin rằng cái hố ngăn cách giữa những người Việt một thời
đứng ở hai bờ chiến tuyến đã bị san lấp khá lâu rồi. Ở thế kỷ 21 này, "hòa
hợp dân tộc" mang một thông điệp mới: người dân Việt, trong lẫn ngoài nước
cùng đồng lòng chung tay, góp sức để xây dựng một đất nước ngày càng phát triển
về mọi mặt.
Lê Minh Đức (thực
hiện)
No comments:
Post a Comment