Sự
hợp tác mong manh giữa Iran và Nga
Maria Snegovaya và Jon B. Alterman
Trần
Giao Thuỷ dịch thuật
Posted
on November 25, 2024
https://dcvonline.net/2024/11/25/su-hop-tac-mong-manh-giua-iran-va-nga/
Cách
nước Mỹ có thể chia rẽ hai đối thủ chính của mình
https://cdn-live.foreignaffairs.com/sites/default/files/styles/_webp_large_2x/public/images/2024/11/22/2024-10-23T133545Z_1634962772_RC2DQAARJPH2_RTRMADP_3_RUSSIA-BRICS.jpg.webp?itok=gOyUpdve
Tổng
thống Iran Masoud Pezeshkian gặp Tổng thống Nga Vladimir Putin, Kazan, Nga,
tháng 10 năm 2024. Maxim Shemetov / Reuters
Kể
từ khi bắt đầu xâm lăng Ukraine, Nga đã có chung mục tiêu với Iran. Nga đã viện
trợ quân sự, sự, bảo vệ ngoại giao và đưa tin tình báo cho Iran. Đổi lại,
Tehran đã viện trợ vũ khí cho Moscow và lập lại tuyên truyền của Điện Kremlin.
Ví dụ, vào tháng 7 năm 2022, Lãnh tụ tối cao Iran Ali Khamenei đã miêu tả NATO
là một “sinh vật nguy hiểm” và tuyên bố rằng nếu Nga không chủ động, phương Tây
sẽ gây ra chiến tranh ở Ukraine.
Với giới quan sát cả hai quốc gia, mối quan hệ hợp tác này không có gì đáng ngạc
nhiên. Hai quốc gia này nằm trong số những đối thủ không đội trời chung của
phương Tây. Kể từ cuộc cách mạng năm 1979 của Iran, giới lãnh đạo của nước này
đã kiên quyết chống Mỹ, tuyên bố họ là mục tiêu liên tục của những âm mưu cô lập
và phá hoại chính phủ Cộng hòa Hồi giáo. Trong khi đó, Tổng thống Nga Vladimir
Putin đã lập luận rằng cuộc chiến với Ukraine thực sự là cuộc chiến với một
NATO tham lam muốn phá hủy Nga. Những quốc gia này là những kẻ bị ruồng bỏ trên
trường quốc tế, phải chịu những lệnh trừng phạt khắc nghiệt và cần có hợp tác ở
bất cứ nơi nào họ có thể tìm thấy. Và cả hai đều do những nhân vật lãnh đạo độc
đoán cá nhân cai trị với sự hỗ trợ của giới tinh hoa đầu sỏ phần lớn không bị
giám sát.
Nhưng bất chấp những điểm tương đồng giữa hai nước, mối quan hệ hợp tác của họ
có thể trở nên mong manh hơn nhiều so với vẻ bề ngoài. Iran và Nga có chung một
kẻ thù và hệ thống chính phủ. Tuy nhiên, họ có lịch sử xung đột lâu dài, một lịch
sử chưa bao giờ biến mất hoàn toàn. Về mặt kinh tế, họ là những quốc gia dầu mỏ
cạnh tranh giành cùng một thị trường. Về mặt chính trị, họ đang đấu khẩu về việc
ai sẽ là cường quốc chính ở Kavkaz và Trung Á. Họ cũng có cách xử trí khác nhau
đối với Trung Đông. Thật vậy, ngoài việc làm suy yếu quyền bá chủ của phương
Tây, họ không chia sẻ bất kỳ nghị trình quốc tế thống nhất nào. Ngay cả khi nói
đến Washington, họ cũng có những khác biệt về mặt chiến lược. Trong cuộc bầu cử
tổng thống Mỹ năm 2024, Nga đã tìm cách giúp Donald Trump. Trong khi đó, theo Bộ
Tư pháp Hoa Kỳ, Iran đã âm mưu giết ông.
Washington và những đối tác của họ nên nắm bắt những khác biệt này để gây chia
rẽ giữa Moscow và Tehran. Làm như vậy không cần phải thân thiện với bất kỳ
chính phủ nào. Thay vào đó, phương Tây có thể khiến nền kinh tế của hai nước chống
lại nhau bằng những chính sách năng lượng làm giảm giá dầu. Họ nên nhắc nhở
nhau rằng ở hầu hết những nơi trên thế giới, họ có tầm nhìn chính trị đối đầu.
Và họ nên khiến Moscow và Tehran khó hợp tác với nhau hơn ở những nơi họ muốn.
Nếu không, Iran và Nga có thể vượt qua những khác biệt của họ và xây dựng mối
quan hệ hợp tác bền vững. Kết quả sẽ là một thế giới bất ổn và bạo lực hơn.
NGUỒN
GỐC CÁCH CƯ XỬ CỦA IRAN-NGA
Những
vấn đề của Nga với phương Tây có từ thời kỳ đầu của kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh.
Khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, giới cải cách thân phương Tây đã đưa ra những
thay đổi mang tính đột phá nhằm nhanh chóng tự do hóa nền kinh tế. Nhưng thay
vì tạo ra sự tăng trưởng khắp nơi, những năm 1990 đã trở thành một thập kỷ đau
thương đối với phần lớn xã hội khi GDP bình quân đầu người thực tế của Nga giảm
42 phần trăm từ năm 1990 đến năm 1998. Tỷ lệ dân số nghèo đói tăng vọt lên mức
kỷ lục 35 phần trăm. Tỷ lệ người chết tăng và tuổi thọ trung bình giảm. Người
Nga trở nên vô cùng nuối tiếc thời Liên Xô và phẫn nộ với Hoa Kỳ. Nhiều người
tuyên truyền những thuyết âm mưu cho rằng phương Tây đã âm mưu chia rẽ Liên Xô
và sau khi Liên Xô sụp đổ, họ đã cắt giảm viện trợ kinh tế cần thiết và lợi dụng
sự yếu kém của Nga. Cuối cùng, họ đã ủng hộ Putin, người đã hứa sẽ khôi phục sự
ổn định và tìm cách khôi phục quyền lực của Moscow.
Những vấn đề của Iran với phương Tây cũng có lịch sử lâu dài. Hoa Kỳ đã ủng hộ
một cuộc đảo chính vào năm 1953 lật đổ thủ tướng dân cử của Iran và trao quyền
cho quốc vương thân phương Tây của đất nước, Shah Mohammad Reza Pahlavi. Shah
đã phát động một chiến dịch hiện đại hóa kinh tế mang tên Cách mạng Trắng vào đầu
những năm 1960, hứa hẹn rằng chiến dịch này sẽ mang lại cho người dân Iran sự
tăng trưởng mạnh mẽ và phát triển kỹ nghệ. Nhưng nhiều lợi ích lại thuộc về tầng
lớp trung lưu và thượng lưu. Hàng triệu người dân Iran nghèo ở vùng nông thôn
đã nhìn thấy lưới
an toàn của họ sụp đổ. Cả đất nước mất phương hướng, điều này đã dẫn đến cuộc
cách mạng năm 1979 và đưa chế độ Hồi giáo của Iran lên nắm quyền.
Khi đó, cả Iran và Nga đều có chung sự ngờ vực sâu sắc và rõ ràng đối với trật
tự phương Tây (và những cải cách do phương Tây hậu thuẫn). Nhưng điểm tương đồng
giữa họ không dừng lại ở đó. Cấu trúc chế độ của mỗi quốc gia cũng khá giống
nhau, với những kẻ độc tài cá nhân, nền kinh tế do nhà nước lãnh đạo và những
cơ quan tình báo mạnh. Ở Nga, nhân vật lãnh đạo đó là Putin. Mỗi nước đều có nền
kinh tế hỗn hợp, với những ngành kỹ nghệ chính như năng lượng và ngân hàng được
liên kết chặt chẽ với nhau do những công an kiểm soát và chủ nhân được phép điều
hành những doanh nghiệp nhỏ ở mức thấp hơn. Về phía Iran, Khamenei và những mạng
lưới của ông điều hành trong hơn 30 năm. Những doanh nghiệp chính của họ hoặc
là do nhà nước làm chủ hoặc điều hành, và chúng thường nằm dưới sự kiểm soát của
giới chứccông an cấp cao cấp có liên hệ với cơ sở giáo quyền. Ở cả hai quốc gia,
chế độ này mua sự ủng hộ của tầng lớp lao động tbằng những khoản trợ cấp và tiền
lương hào phóng. Nó mua sự ủng hộ của nhiều công nhân trung lưu bằng cách tuyển
dụng họ vào làm việc trong những doanh nghiệp do nhà nước điều hành.
Washington, hiểu rõ cách thức những chế độ này được cấu trúc, đã ban hành những
lệnh trừng phạt rộng rãi nhằm mục đích khiến hệ thống của họ trở nên không bền
vững. Nhưng nghịch lý thay, kinh nghiệm của Iran cho thấy những lệnh trừng phạt
giúp củng cố chúng bằng cách khiến bất kỳ ai cũng khó có thể phát triển sức mạnh
kinh tế bên ngoài giới tinh hoa. Người dân Iran bình thường đã trở nên lệ thuộc
nhiều hơn vào nhà nước về tài nguyên. Đổi lại, giới tinh hoa trốn tránh những hạn
chế kinh tế bằng cách mang lại của cải bằng những mạng lưới buôn lậu. Có lẽ đó
là lý do tại sao Điện Kremlin đang cố gắng noi theo kinh nghiệm của Iran.
Moscow đã mượn cách thức dùng những công ty vỏ bọc và chuyển dầu từ tàu sang
tàu trên vùng biển quốc tế của Iran. Vào tháng 7 năm 2024, Bộ Giáo dục Moscow thậm
chí đã đưa chương trình nghiên cứu về nền kinh tế Iran vào những trường trung học
phổ thông của Nga khi quốc gia này chuẩn bị cho khả năng bị trừng phạt trong
nhiều thập kỷ.
HỢP
TÁC GÂY TỘI ÁC
Quan
hệ hợp tác quân sự giữa Khamenei và Putin có từ trước cuộc xâm lăng của Nga.
Hai bên đã xây dựng mối quan hệ quân sự vào năm 2015, khi Nga bắt đầu can thiệp
vào Syria để ủng hộ chế độ của Bashar al-Assad. Tehran, vốn đã hậu thuẫn
Damascus, đã để cho Nga quyền sử dụng một căn cứ quân sự bên trong Iran để có
thể mở những cuộc không kích. Hai nước cũng thành lập một ủy ban quân sự chung
để tạo điều kiện cho những hoạt động cao cấp giữa những tướng lĩnh của hai nước,
huấn luyện nhân sự và mua sắm vũ khí.
Nhưng kể từ năm 2022, Moscow và Tehran đã đưa hợp tác quốc phòng của họ lên một
tầm cao mới. Iran hiện đang viện trợ cho Nga chiến đấu cơ không người lái, phi
đạn hành trình, đạn đại pháo, đạn dược vũ khí nhỏ, hoả tiễn chống tăng, bom cối
và bom lượn. Iran cũng giúp Nga xây dựng một nhà máy sản xuất máy bay không người
lái tại khu vực Tatarstan của Nga. Đổi lại, Nga đã đồng ý gửi cho Tehran chiến
đấu cơ, trực thăng tấn công, phản lực cơ huấn luyện và hệ thống radar. Nga cũng
đã để Iran dùng chung năng lực mạng và thông tin tình báo.
Iran và Nga đang hợp tác về nhiều vấn đề hơn là chỉ những vấn đề quân sự thông
thường. Trên thực tế, có vẻ như mọi thứ đều có thể xẩy ra để theo đuổi mục tiêu
lật đổ phương Tây. Điện Kremlin đã chia sẻ thông tin và kỹ thuật bí mật để giúp
Tehran phát triển vũ khí hạch tâm. Nga đã tận dụng vị trí tại Hội đồng Bảo an
Liên hiệp quốc của mình để bảo vệ Iran không phải có trách nhiệm giải trình về
những hành động gây mất ổn định và vi phạm luật pháp quốc tế. Moscow đã chia sẻ
thông tin tình báo và cung cấp vũ khí cho những nhóm được Iran hậu thuẫn gồm cả
Hamas, Hezbollah và Houthis. Hai quốc gia này đang trao đổi tư vấn về cách dập
tắt những cuộc biểu tình, phá hoại những nỗ lực của tổ chức đối lập và giám sát
công dân của họ. Nga thậm chí còn cung cấp cho Iran kỹ thuật giám sát tiên tiến.
Hợp tác kinh tế giữa hai nước cũng đang gia tăng. Năm 2023, Tehran đã ký một hiệp
định thương mại tự do với Liên minh Kinh tế Á-Âu do Nga đứng đầu và nhận lời mời
gia nhập BRICS, một khối do Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Hoa thành lập vào năm
2009 và Nam Phi đã gia nhập vào năm sau. Nga đã thúc đẩy xuất cảng ngũ cốc sang
Iran. Cả hai nước đều thiết lập một cơ chế chuyển ngân liên ngân hàng để họ có
thể giao dịch trực tiếp bằng đồng rúp và đồng rial, tránh những lệnh trừng phạt
của phương Tây khiến họ không thể dùng euro hoặc đô la. Họ đã thảo luận về việc
tạo ra cái mà họ gọi là Hành lang Vận tải Bắc-Nam Quốc tế—một mạch đường thủy,
đường sắt và đường bộ kết nối Ấn Độ, Iran và Nga.
NHỮNG
NGƯỜI BẠN CÙNG GIƯỜNG LẠ LÙNG
Iran
và Nga có thể sẽ xích lại gần nhau hơn trong những năm tới, nhưng không có gì bảo
đảm rằng sẽ có sự hợp tác lớn hơn. Với tất cả những lợi thế của họ, liên minh
Iran-Nga vẫn còn những mâu thuẫn cố hữu, sự ngờ vực lẫn nhau và những lợi ích cạnh
tranh có thể làm suy yếu tính bền vững của liên minh này.
Một trong những trở ngại lớn nhất là lịch sử chung của Iran và Nga. Hai quốc
gia kết nối về mặt địa lý với nhau bằng Biển Caspi, đã trải qua nhiều thế kỷ là
đối thủ đế quốc. Quân đội Liên Xô đã chiếm đóng một phần Iran trong Thế chiến
II, và Iran là một phần quan trọng của phe phương Tây trong suốt thời kỳ Chiến
tranh Lạnh. Tất nhiên, điều đó đã thay đổi sau cuộc cách mạng năm 1979, nhưng
giới lãnh đạo tôn giáo mới của Iran không mấy quan tâm đến việc liên kết với
Liên Xô thế tục. Ayatollah Ruhollah Khomeini, người lãnh đạo tối cao đầu tiên của
Cộng hòa Hồi giáo, ghét Washington. Nhưng ông không ưa Moscow, nơi mà ông gọi
là “Satan nhỏ hơn.”
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, hai nước đã đạt được những sự điều chỉnh đôi
khi khó xử trong phạm vi hậu Xô Viết. Iran đã lạnh nhạt với những người Hồi
giáo Chechnya đấu tranh giành độc lập khỏi Nga vào đầu những năm 1990, mặc dù
hiến pháp Iran yêu cầu “cam kết anh em với tất cả Người Hồi giáo và sự ủng hộ
không tiếc đối với những người bị áp bức.” Hai bên thận trọng nhìn nhau khi
Armenia và Azerbaijan giao tranh vào đầu những năm 2000. Theo một số cách, họ
đang cạnh tranh ngày nay. Kể từ cuộc chiến tranh Nagorno-Karabakh lần thứ hai,
vào năm 2020, Moscow đã cố gắng giúp Baku tạo ra một hành lang nối Azerbaijan với
Thổ Nhĩ Kỳ. Trong khi đó, Tehran đã cố gắng ngăn chặn việc đó, vì lo ngại rằng
hành lang này sẽ cắt đứt quyền tiếp cận trực tiếp của họ với Armenia và làm giảm
ảnh hưởng trong khu vực.
“Trong
nhiều thế kỷ, người Iran cảm thấy bị những quốc gia hùng mạnh hơn bóc lột, kể cả
Nga.”
Iran
và Nga cũng không cùng quan điểm ở Trung Đông. Ví dụ, Iran và Israel là những kẻ
thù công khai. Nhưng Nga có mối quan hệ làm việc chặt chẽ với Israel. Đúng là kể
từ khi cuộc chiến ở Gaza bắt đầu vào năm ngoái, Putin đã chỉ trích Israel, thậm
chí còn mời một phái đoàn Hamas đến Nga. Vũ khí của Nga cũng đã đến được với
nhiều đối thủ trong khu vực của Israel. Nhưng hơn một triệu người Israel nói tiếng
Nga, tạo điều kiện cho Moscow có chỗ đứng tại Israel và là lý do để ưu tiên an
ninh của Israel. Đổi lại, Israel cũng quan tâm đến lợi ích của Nga tại Syria.
Nga cũng theo đuổi mối quan hệ chặt chẽ hơn với những nước Ả Rập ở Trung Đông
trong nỗ lực khai thác vốn của khu vực Vịnh và chuyển vốn của Nga bị trừng phạt
bằngnhững tổ chức ngân hàng vùng Vịnh. Những nhu cầu này tự nhiên khiến Nga nhậy cảm
hơn với nhiều khiếu nại của thế giới Ả Rập về hành động của Iran.
Iran và Nga không chỉ có lợi ích địa chính trị khác nhau. Bất chấp mọi lời bàn
tán về việc hình thành quan hệ hợp tác thương mại, cả hai quốc gia chung cuộc đều
bị ngành kỹ nghệ hydrocarbon của họ chi phối. Và vì những lệnh trừng phạt của
phương Tây hạn chế khả năng bán dầu của họ cho toàn thế giới, nên họ buộc phải
bán dầu trong cùng một số ít thị trường. Cạnh tranh có thể sớm trở nên gay gắt
hơn: thị trường lớn nhất trong đó, Trung Hoa, đang trải qua thời kỳ suy thoái
kinh tế có thể làm suy yếu nhu cầu năng lượng của nước này.
Cuối cùng, ở mức căn bản hơn, Iran và Nga có nền văn hóa chiến lược khác nhau.
Trong phần lớn thế kỷ XX, Moscow đã lãnh đạo một trong hai siêu cường toàn cầu
và vẫn tiếp tục có ý thức lịch sử về chủ nghĩa ngoại lệ. Mặc dù người Iran nuôi
dưỡng tham vọng bá quyền, nhưng những tham vọng đó lại mang tính khu vực sâu sắc.
Và hơn cả những giấc mơ thống trị, giới lãnh đạo Iran bị sự oán giận thúc đẩy.
Trong nhiều thế kỷ, người Iran cảm thấy bị những quốc gia hùng mạnh hơn bóc lột,
kể cả Nga. Rốt cuộc, vào những năm 2010, Moscow đã hợp tác với những lệnh trừng
phạt của phương Tây để gây sức ép buộc Iran phải kiềm chế chương trình hạch tâm
của họ.
MỐI
LIÊN KẾT GÂY CHIA RẼ
Hiện
tại, bản năng ở Washington là gộp Iran và Nga lại với nhau, coi họ như một dạng
trục bền vững đe dọa đến lợi ích của Mỹ. Nhưng xét đến nhiều điểm khác biệt giữa
hai quốc gia, giới chức chính phủ Hoa Kỳ nên coi họ như những gì họ vốn có: hợp
tác tiện lợi. Điều đó có nghĩa là, thay vì gộp cả hai lại với nhau, Washington
nên kiên nhẫn tìm cách đẩy họ ra xa nhau.
Hoa Kỳ có thể bắt đầu bằng cách dùng những lệnh trừng phạt một cách kéo léo
hơn. Những chế độ độc tài cá nhân nhậy cảm hơn những chế độ độc tài khác đối với
tình trạng mất nguồn ngoại thu do lệnh trừng phạt gây ra. Dựa vào sự bảo trợ cá
nhân hơn là những thể chế chính thức, họ cần một nguồn thu liên tục, có thể dễ
dàng bị nhắm mục tiêu. Ở Iran và Nga, nguồn thu này phần lớn đến từ việc xuất xảng
nhiên liệu hóa thạch.
Tuy nhiên, chính quyền Biden đã ưu tiên sự ổn định của thị trường năng lượng
hơn là hoàn toàn siết chặt Iran và Nga, do đó hai quốc gia này đã xoay xở để
duy trì sản xuất. Nhưng trong một thế giới hiện đang tràn ngập công suất dự
phòng, Hoa Kỳ có thể đủ khả năng để quyết liệt hơn trong việc cắt giảm lợi tức
nhờ dầu khí của mình. Nếu Washington tăng cường thực thi những lệnh trừng phạt,
họ sẽ làm tăng mức cái giá bảo hiểm rủi ro mà Trung Hoa sẽ yêu cầu để mua dầu của
họ, do đó làm giảm cả doanh thu của Iran và Nga. Việc thực thi chặt chẽ hơn mức
giá trần mà Hoa Kỳ và những nước G-7 khác áp dụng đối với dầu của Nga vào năm
2022 cũng sẽ có ảnh hưởng tương tự, giống như bất kỳ nỗ lực nào khác của Hoa Kỳ
nhằm hạ giá dầu.
Tương tự như vậy, Hoa Kỳ nên nêu bật những cách khác mà hai nước có xung đột
quyền lợi. Ví dụ, những chiến dịch thông tin có mục tiêu nên vạch trần cách Nga
ủng hộ những ưu tiên của Ả Rập Saudi và những Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất ở
Trung Đông hơn là Iran. Phương Tây cũng nên nêu bật mối quan hệ lâu dài của Nga
với Israel. Trong một số trường hợp, phương Tây có thể thổi phồng những sự thật
này bằng cách giải mật thông tin phơi bày những căng thẳng này.
Tác
giả
Maria
Snegovaya là
một thành viên cao cấp của Chương trình Châu Âu, Nga và Á-Âu tại Trung tâm
Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), và là giáo sư thỉnh giảng tại Trường Dịch
vụ Đối ngoại Walsh của Đại học Georgetown và cũng là thành viên của PONARS
Eurasia. Tốt nghiệp Tiến sĩ Khoa học Chính trị tại Đại học Columbia.
Jon
B. Alterman, tốt nghiệp Tiến sĩ
Khoa học Chính trị tại Đại học Columbia và là phó chủ tịch cao cấp của CSIS,
giám đốc Chương trình Trung Đông và Chủ tịch Zbigniew Brzezinski về An ninh
toàn cầu và Địa chiến lược, có kinh nghiệm sâu rộng trong hoạch định chính
sách, giảng dạy nghiên cứu Trung Đông. Ông thường xuyên bình luận về chính
sách.
©
2024 DCVOnline
Nếu
đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
________________________
Nguồn: Iran and Russia’s Fragile
Partnership | Maria Snegovaya and Jon B. Alterman | Foreign Affairs | November
25, 2024.
No comments:
Post a Comment