Sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân
13 Tháng Ba 2016 8:10 CH
Vốn thích nhạc không lời nhưng đôi khi tôi vẫn nhớ
về một câu hát cũ, “Anh ở đầu sông, em cuối sông. Chung nhau dòng nước Vàm Cỏ
Đông…” Lãng mạn sao, những cặp tình nhân cùng uống chung một dòng nước. Và
hạnh phúc thay những kẻ có thể sống cả đời bên một con sông êm đềm, qua những
mùa lúa chín không tiếng súng, những trưa hè có thể nép mình dưới bóng các rặng
cây. Nhưng đó là chuyện cổ tích.
Lịch sử cận đại của người Việt Nam đã diễn ra trong
khói bom và tiếng nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ chia cắt đến tận
lòng sâu của mỗi gia đình. Sự nhầm lẫn, cự bất khả tri không chỉ xẩy ra giữa
hai nền văn hoá Đông-Tây mà còn xẩy ra ngay giữa lòng dân tộc Việt, giữa các
thành viên trong một gia đình, một dòng họ, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa bên
thắng cuộc và bên thua cuộc, giữa người trong nước và những người sống ngoài
biên giới… Tóm lại, những người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông. Những
con sông thiếu vắng những cây cầu.
Khoảng cách giữa người với người có thể còn dài rộng hơn sông, sâu hơn vực
thẳm, thế nên, dù trên địa hạt văn chương, tôi coi Albert Camus cao hơn hẳn
Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận câu nói nổi tiếng của Sartre là một
nghiệm sinh có tính nhân loại, “Tha nhân là địa ngục của ta.”
Đây là kinh nghiệm của chính tôi.
Năm 1994, tôi sang Pháp lần đầu, được một nhóm “Việt kiều yêu nước” đón tiếp.
Có lẽ tên ấy được đặt ra khi nhóm này tham gia vào phong trào chống chiến tranh
và người cầm đầu nhóm ấy đã từng là phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ trong các hội
nghị đàm phán hưu chiến ở Paris. Khoảng năm 1990, cũng nhóm này đứng lên lấy
chữ ký của Việt kiều trí thức ở Mỹ, Đức, Úc và Pháp trong bản kiến nghị yêu cầu
nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam mở rộng dân chủ. Sau bản kiến nghị ấy, họ bị
cấm về nước một thời gian khá dài, thậm chí còn bị gọi là “các phần tử phản động”.
Như thế, phải hiểu là giữa nhóm Việt kiều này với tôi có chung mục đích tranh đấu
cho quyền sống của người dân Việt Nam. Có lẽ cũng vì lý do ấy, họ đón tôi, ít
nhất đấy là điều tôi nghĩ. Cuộc đón tiếp diễn ra nồng nhiệt, dường như mang mầu
sắc bạn hữu. Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, tôi nhận thấy giữa họ với tôi có
rất nhiều điểm bất đồng, đặc biệt là sự nhìn nhận về cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Tôi tự nhủ,
“Người ta sống trên đời, thường tụ thành bè, còn bạn là thứ quý hiếm, nó còn
quý hiếm hơn tình yêu vì không có bệ đỡ tình dục. Tình bạn đòi hỏi một sự cảm
thông sâu sắc, những phẩm chất tương đồng, và cơ duyên để có thể cùng nhìn về một
hướng, cùng đi theo một ngả. Vì lẽ đó, tình bạn không thể có được một cách dễ
dãi. Không có thứ tình cảm nào không cần thử thách, cho dù là tình yêu, tình bạn
hay tình đồng đội, tất thảy đều cần phải nung qua lửa mới biết vàng thau”.
Nghĩ thế, tôi chọn thái độ im lặng, lảng tránh các cuộc tranh cãi, vì nếu không
là bạn, hà tất phí nước bọt để đôi co?
Tôi biết
rõ rằng, đối với nhóm Việt kiều này cuộc chiến tranh chống Mỹ là cần thiết, là
niềm kiêu hãnh, là đài vinh quang của dân tộc Việt Nam. Đối với tôi, đó là sự
nhầm lẫn lớn nhất trong lịch sử, là cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất, tàn khốc nhất
đã xảy ra trong một tình thế đen trắng lẫn lộn, các khái niệm bị đánh tráo, kẻ
tham gia cuộc chiến ở phía Bắc nhầm lẫn do trói buộc bởi ngôn từ, kẻ tham chiến
ở phương Nam bị cuốn vào dòng chảy của cuộc Chiến tranh Lạnh, và cả hai bên đều
bị đặt vào thế đã rồi.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là bài học đau đớn nhất, nhục nhã nhất cho dân tộc
Việt Nam, mà kẻ chịu trách nhiệm không chỉ là người Mỹ mà còn là chính những
người lãnh đạo cộng sản phía Bắc. Trong cuộc chiến tranh ấy, dân tộc Việt tự biến
mình thành vật đệm giữa hai toa tầu, là đám lính đánh thuê cho hai hệ thống tư
tưởng trái chiều đang tiến hành cuộc chiến tranh Lạnh. Trong suốt một thập kỷ,
nước Việt Nam đã thực sự biến thành cái cối xay thịt khổng lồ nhất trong lịch sử
của toàn thể loài người.
Năm 2005, tôi trở lại Pháp.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” chủ động mời tôi đến ăn cơm tối với họ để trao đổi
tình hình. Tôi nhận lời. Bữa cơm ấy diễn ra ở một quán ăn thuộc quận 13. Trước
khi đến Paris, tôi đã ở Turin (Ý) một tuần. Trong tuần lễ đó, khá nhiều báo Ý
đã phỏng vấn tôi và đã đăng bài tức khắc. Một trong số các bài báo ấy, có đề tựa
“Mười triệu người chết trong cuộc chiến Việt Nam”.
Trong các cuộc phỏng vấn tại Turin, tôi đã kể lại hai điều:
- Thứ nhất, khi làm người viết thuê cho các ông tướng, tôi được nghe họ nói với
nhau: Chúng ta chỉ công bố con số thật sự khi người Mỹ bồi thường chiến tranh.
Như thế, con số phía Mỹ đưa ra (khoảng 5 triệu tử vong) lẫn con số chính quyền
Việt Nam đưa ra (hai triệu rưỡi) đều là số sai sự thật.
- Thứ hai, chỉ khi đến Turin tôi mới biết lính các nước chết ra sao và
nhờ có sự so sánh ấy, tôi mới biết thân phận người lính và người dân Việt Nam
đau khổ đến mức nào. Năm 2005, cuộc chiến tranh đang xảy ra ở Iraq. Báo mỗi
ngày đều đăng tin bao nhiêu lính Mỹ, bao nhiêu lính Iraq tử vong. Nếu con số đó
chạm tới năm chục đã khiến các nhà báo làm rộn lên, chất vấn tổng thống. Khi số
tử vong chạm đến số 100 thì sự căng thẳng trong chính trường đã khiến Nhà Trắng
điên đầu. Trong chiến tranh Việt-Mỹ, mỗi lần B52 bay qua, chỉ hai ba phút, dân
thường, thanh niên xung phong chết hai trăm, ba bốn trăm, thậm chí nơi đông hơn
sáu trăm người nhưng không có một dòng trên báo, không một câu trên đài phát
thanh. Không ai hay biết, kể cả người Việt lẫn người nước ngoài.
Tôi nói với các nhà báo Ý:
“Tới tận năm nay, gần sáu mươi tuổi tôi mới thấm thía sự khác biệt giữa kiếp
người. Nhờ đọc báo phương Tây, tôi mới biết là người Mỹ và người Iraq chết như
người, chết theo kiểu người. Chúng tôi, những người Việt Nam, chúng tôi chết
như kiến, chúng tôi chết như ruồi, chúng tôi chết như lá khô rụng, cái chết của
chúng tôi hoà lẫn bùn đen, và tan trong câm lặng.”
Vì ở Turin có những Việt kiều liên hệ chặt chẽ với nhóm “Việt kiều yêu nước” ở
Paris và gửi báo cho họ nên trong bữa cơm tối hôm ấy, tôi bắt buộc phải bàn cãi
với họ về chủ đề chiến tranh Việt-Mỹ. Tôi đã thuật lại cho họ nghe sự tổn thất
to lớn của dân tộc khi những người lãnh đạo mắc chứng vĩ cuồng. Rất nhiều trận
xảy ra khi lực lượng trinh sát thăm dò địa hình địa vật không kỹ, bộ phận hậu cần
chuẩn bị khí tài chưa đủ nhưng cấp chỉ huy ham lập thành tích nên cứ đẩy lính
ra chiến trường, kết quả là đại bại. Trong khi ở chiến trường xác lính chết ngập
suối, nước không chảy được, chim cắt chim kền kền ăn thịt no đến mức không bay
lên nổi, lệnh ở Hà Nội vẫn tiếp tục giục tấn công. May mắn là còn có những vị
tướng biết thương dân, thương lính, khóc đỏ mắt, quyết định rút quân và làm báo
cáo giả để gỡ tội.
Hồi ấy, tổng tư lệnh của cuộc chiến là Lê Duẩn, đã đưa ra khẩu hiệu:
“Dân tộc chúng ta là dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
Quân đội chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”
Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không phòng thủ!
Xưa nay, trong lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm của dân tộc, bao giờ chúng ta
cũng lùi về rừng núi để chờ thời gian mài mòn lòng kiêu ngạo lẫn ý chí quân địch,
cũng là để khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt quật ngã chúng, cũng là để củng cố
quân đội rồi chờ thời cơ thuận lợi mới huy động binh lính và dân chúng tổng tấn
công. Khẩu hiệu của ông Lê Duẩn đưa ra là một sự sáng tạo thuần tuý, một ý thơ
bay bổng, xuất phát từ tham vọng và lòng kiêu mạn cộng sản. Nhưng thơ phú là thứ
chỉ để ngâm ngợi khi gió mát trăng thanh, thơ mà trà trộn với chiến tranh nó biến
thành núi xương sông máu.
Đám tướng lĩnh không dám tuyên bố thẳng thừng, nhưng đều hiểu ngầm rằng lãnh tụ
của họ là một kẻ vĩ cuồng.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris nghe tôi nói xong thì hai nhân vật chủ chốt
phản ứng dữ dội. Ông X bảo:
- Mục tiêu biện minh cho phương pháp. Muốn thắng cuộc trong chiến tranh thì phải
chấp nhận tất cả.
Ông Y phản ứng với con số Mười triệu:
- Con số đó không thật. Ở nước Pháp chúng tôi có các biện pháp khoa học về dân
số để chứng mình là con số ấy sai. Làm sao chị có thể nghe theo mấy thằng tướng
ngu ấy được?
Tôi im lặng không đáp. Nhưng hôm sau, tôi có nhờ ông Phan Huy Đường, lúc đó còn
dịch sách của tôi, nói lại với ông Y:
- Nhờ Đường nói với ông bạn của Đường là về Việt Nam chớ mở mồm mà bảo mấy ông
tướng là ngu. Bởi vì, rất nhiều hạ sĩ quan thời đó (trung uý, đại uý, thiếu
tá…) biết rõ rằng sinh mạng họ được bảo tồn là nhờ những ông tướng thực sự
thương lính và không ham thành tích như tướng Vũ Lăng. Bây giờ, nếu không giải
ngũ họ cũng đã leo lên đại tá hoặc thiếu tướng. Nếu ông Y mở mồm bảo tướng của
họ là thằng ngu hẳn họ sẽ cho một báng súng vào đầu, hiền hoà nhất họ cũng khạc
vào mặt.
Đấy là phản ứng duy nhất của tôi. Trong thâm tâm, tôi quyết định chia tay.
Tôi nghĩ, đám người này cần cuộc chiến tranh chống Mỹ như người đàn bà cần son
phấn. Giữa họ với ta chẳng còn điều gì đáng nói. Một cuộc chia tay vĩnh viễn là
điều hợp lý hơn cả. Không cần kiệt xuất thông minh, chỉ cần chịu khó quan sát sẽ
thấy ngay rằng cộng đồng người Việt ở nước Pháp là một cộng đồng không bản sắc,
sống co cụm, một bầy thỏ ngoan ngoãn đối với chính quyền. Họ không gây ra các vụ
lộn xộn như người da đen và người Arab theo đạo Hồi, nhưng họ cũng chẳng có tiếng
nói, chẳng có một gương mặt nào trên các diễn đàn quyền lực. Vì bản chất nhẫn
nhịn, chịu thương chịu khó nên họ thành công ở mức trung bình, trở thành kỹ sư,
bác sĩ, nha sĩ, giáo viên đã là giấc mơ tột đỉnh. Hội nhập vào xã hội Pháp chưa
lâu, sự tự tin vào bản thân chưa đủ, họ lại bị ám ảnh bởi thân phận lớp người
Việt Nam nhập cư trước họ, những người lính thợ bị thực dân cưỡng bức rời quê
hương sang Pháp phục vụ tại một số nhà máy làm thuốc súng để thay thế cho các
công nhân Pháp ra chiến trường.
Năm 1937, để dự phòng chiến tranh, bộ trưởng Bộ Thuộc Địa và Quân Đội (ministre
de la Colonie et de la Défense) Georges Mandel dự tính tuyển 80.000 người Đông
Dương. Tháng 6 năm 1940 đám thanh niên Việt Nam được dẫn đến hải cảng Pháp gồm:
10.750 người trung kỳ, 7.000 người miền Bắc, 2.000 người miền nam. Đám lính thợ
này đã bị đối xử như những con vật, bị dồn vào sống trong những khu nhà tồi
tàn, không điện và thiếu nước, không nơi vệ sinh, không lò sưởi và thức ăn
không đủ nửa khẩu phần. Mùa đông, những kẻ khốn khổ ngủ trên sàn, đại tiểu tiện
ngay bên ngoài cửa, người nọ dẫm vào phân người kia. Đói khát, họ phải đào rễ củ
và hái rau dại về ăn. Cái sự thật tàn nhẫn này bị vùi trong câm lặng. Cho đến đầu
thế kỷ XXI, mới có vài nhà báo Pháp lên tiếng. Sau đó, Bernard Kouchner, vốn là
một ngôi sao cánh tả nhưng sau thất bại của Ségolen Royal trong cuộc tranh cử
2007, đã nhận lời làm bộ trưởng bộ ngoại giao cho chính phủ Sarkozy mới chính
thức lên tiếng xin lỗi vì: “Nước Pháp đã đối xử với những người lính thợ Việt
Nam như đối với súc vật.”
Trong thực tiễn, nước Pháp đã đối xử với đám lính thợ Việt Nam còn tệ hơn súc vật
bởi khi cưỡng chế thanh niên Việt Nam sang Pháp, họ dồn đám người này xuống hầm
tầu còn tầng trên, thoáng mát hơn thì để dành cho… những con bò. Cái kinh nghiệm
tồi tệ ấy được cấy trong tim như một quá khứ sầu thảm, cộng đồng người Việt
không thể tránh khỏi mặc cảm của những kẻ vừa là dân nhập cư, vừa mang nhãn hiệu
“Được lôi ra từ vùng đất thuộc địa”. Thế nên, cuộc sống tinh thần của họ dường
như đột ngột khởi sắc, bừng bừng ánh sáng khi cuộc chiến tranh Việt-Mỹ xẩy ra.
Tại sao?
Dễ hiểu thôi, tinh thần „Bài Mỹ“ là chất xi-măng gắn kết một số đông quốc gia
trên thế giới, không chỉ các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa nhưng ngay cả các
nước phương Tây. Hành vi của nước Mỹ không chỉ gợi lên lòng căm thù nhưng kèm
theo đó cả sự sợ hãi. Nếu có tiền lệ một nước nhược tiểu bị Mỹ chà nát thì sẽ đến
lượt các nước khác theo thành ngữ, “Không bao giờ có lần thứ nhất, lần thứ hai
mà lại không có lần thứ ba”.
Vả chăng, về mặt lý, cuộc chiến này không thể biện minh, “Không một người Việt
Nam nào mang bom sang giết người Mỹ.”
Dù cộng sản hay không cộng sản thì sự thực là không có một người Việt Nam nào cầm
dao hoặc cầm súng sang tận nước Mỹ để giết một người Mỹ, hoặc ngay đến một con
bò trong trang trại Mỹ cũng không.
Vì thế, lương tâm nước Mỹ phải thức tỉnh. Các vụ biểu tình phản đối chiến tranh
trước toà Nhà Trắng của Mỹ điệp với các cuộc biểu tình trước sứ quán Mỹ tại các
nước khác. Tiếng hát và ngọn lửa tự thiêu của trí thức Mỹ đốt nóng cả châu Mỹ
La-tinh và châu Âu.
Vào thời điểm ấy, người Việt Nam nhập cư chống chiến tranh được hưởng một sự ưu
đãi vô tiền khoáng hậu. Đi đến đâu họ cũng được thăm hỏi, giúp đỡ, được coi là
người của “một dân tộc anh hùng”. Và, trên các diễn đàn chống chiến tranh, đại
diện của “tổ chức Việt kiều yêu nước” được xuất hiện bên cạnh những nhân vật
quan trọng bản xứ mà nếu không nhờ ân sủng của cuộc chiến này, không bao giờ họ
có cơ hội và có tư thế tiếp xúc. Để ví von, có thể nói rằng: Những con chim vốn
nép mình trong bóng tối nhờ ánh đạn lửa mà được nhô đầu ra và há mỏ cất tiếng
kêu.
Thế nên, họ cần cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người quả là vô giới hạn. Những kẻ sống ở một
phương trời, cần máu đồng bào phải đổ ở một phương trời khác để tô điểm cho cuộc
sống tinh thần của chính mình.
Chiến tranh thật đẹp khi nó được tạo bằng máu xương kẻ khác!
Từ đây, tôi nghi ngờ hai từ “yêu nước”. Phía sau danh từ này có vô vàn tâm trạng,
có vô số động cơ, hoặc xác thực, hoặc ngầm ẩn, hoặc có ý thức, hoặc vô thức.
Danh từ nào cũng lập lờ và cũng có khả năng phản lại nghĩa chính thống.
Như thế, giữa người Việt với người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông vô
hình. Chắc chắn cũng còn khá lâu mới bắc được cầu qua những con sông ấy.
Chiến tranh Việt-Mỹ đã qua, nhưng sau đó không lâu cái tên Việt Nam lại dội lên
trên các kênh thông tin quốc tế. Lần này, là một thứ ồn ào dơ dáy. Chẳng còn là
người anh hùng bé nhỏ dám đương đầu với đế quốc Mỹ mà là tác giả của Khổ nạn
Thuyền nhân. Ở châu Âu, phái đoàn Việt Nam không còn được chào đón bằng cờ và
hoa mà bằng cà chua và trứng thối. Tôi nhớ rằng lần
đi châu Âu, ông Võ Văn Kiệt đã hứng trọn một quả trứng thối vào giữa mặt còn đến
lượt ông Phan Văn Khải thì thoát nạn nhờ sự bố trí, dàn cảnh công phu của cảnh
sát Pháp. Sự đời vốn đổi thay như các lớp tuồng. Điều khốn khổ cho người Việt Nam
là dường như họ chỉ được biết đến trong các tình huống đau khổ. Kể từ khi làn
sóng “Thuyền nhân” dịu đi, Việt Nam gần như chẳng còn gì để nhớ. Cứ nghe đài
phương Tây thì biết, người ta chỉ nhắc tới hai từ Việt Nam khi nhắc tới cuộc
chiến tranh Việt-Mỹ, bởi rất nhiều trí thức phương Tây, đặc biệt là các văn nghệ
sĩ đã tham gia vào phong trào chống chiến tranh và tuổi trẻ của họ gắn bó với
những kỷ niệm của một thời sôi động. Tuy nhiên, ngay cả những người kiên nhẫn
nhất và hiểu biết Việt Nam nhiều nhất cũng chưa dám quả quyết rằng họ nắm được
sự thực về cuộc chiến tranh này. Điều đó, quá khó khăn.
Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:
- Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?
Tôi đáp:
- Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của
chủ nghĩa ngu dân.
Anh bạn chưng hửng:
- Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.
Tôi cười:
- Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây lại là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và
ngược lại.
Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý thuyết quái gở” này.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ được đảng cộng sản phát động
với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.
Năm 1964, tôi mười bẩy tuổi. Vào tuổi ấy, tất thảy thanh niên ở miền Bắc không
có quyền nghe đài nước ngoài, không có ti-vi, không có máy quay đĩa, không có bất
cứ nguồn thông tin nào ngoài báo chí cộng sản và đài phát thanh trung ương. Lần
đầu tiên, tôi được nghe những bài hát nước ngoài là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa
hè năm 1963, anh họ tôi là phiên dịch tiếng Nga dẫn tôi cùng đứa em trai đến
nhà ông chuyên gia mỏ thiếc Tĩnh Túc ở Hà Nội. Ông bà ấy đón tiếp rất tử tế,
ngoài việc chiêu đãi bánh ngọt và nước trà chanh, còn mở máy quay đĩa cho chúng
tôi nghe. Cảm giác của tôi lúc đó là choáng váng, như muốn chết. Đó là cảm giác
thật sự khi con người lạc vào một thế giới mà họ vừa cảm thấy ngây ngất vừa cảm
thấy như ngạt thở. Đĩa nhạc đó là của Roberto… (không nhớ họ), một giọng ca Ý
tuyệt diệu nhưng chết trẻ. Những bài hát tôi nghe là các bài nổi tiếng cổ truyền:
Ave Maria, Santa Lucia, Paloma, Sérénade, Histoire d’amour, Besame Mucho…
Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ, tôi bước đi loạng choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi là cuộc sống của những
kẻ bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu
tiên tôi được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở bên ngoài
chúng tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại của
chúng tôi là thời đại của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một thứ chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc
con người sống như bầy súc vật trong một hàng rào được xây nên bằng đói khát,
hà hiếp và tối tăm.
Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo của dạ dầy và cái bỏng
rát của roi vọt thì họ không thể là người theo nghĩa thực sự. Chủ nghĩa ngu dân
là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ
ra lệnh. Khi tất cả những con ngựa đều chạy theo một hướng,
ắt chúng tạo ra sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất là khi, trong máu chúng đã cấy
sẵn chất kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.
Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh từ Xâm lăng dùng để chỉ: quân Nguyên,
quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là quân Mỹ. Danh từ ấy đồng nghĩa với Tô Định,
Mã Viện, Thoát Hoan… Tóm lại, Mỹ là lũ giặc phương Bắc nhưng mũi lõ, mắt xanh,
tóc vàng.
Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng tôi không có điều kiện để tiếp cận với các
nguồn thông tin khác, các ngôn ngữ khác, nên hiển nhiên chúng tôi là đám tù
binh ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh ninh rằng mình ra đi là để bảo vệ
non sông.
Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết hàng ngàn năm để chống lại những kẻ thù
mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng sẵn sàng ra chiến trường chống quân xâm lược
Mỹ theo đúng cách thức ấy.
Đó là lý do tôi nói, “sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.
© Dương Thu Hương
No comments:
Post a Comment