Thursday, 10 February 2022

CHUYỆN CÁI BÁNH CHƯNG HAY LÀ CHUYỆN “NHIỀU CHỮ ÍT NGHĨA” (Hà Thanh Vân)

 



 

CHUYỆN CÁI BÁNH CHƯNG HAY LÀ CHUYỆN “NHIỀU CHỮ ÍT NGHĨA”    

Hà Thanh Vân 

8/2/2022  04:39  

https://www.facebook.com/hathanhvanaliceirisdevi/posts/5442240919122700

 

Định không viết về cái bài viết mấy hôm nay đang nổi lềnh phềnh trên mạng của nhà văn Phạm Thị Hoài nhưng tôi bỗng nhiên nghĩ rằng trên đời này có những người neo vào dĩ vãng mà sống thì vừa đáng vui mà vừa đáng buồn. Vui vì họ có cái dĩ vãng để mà neo vào. Nhưng buồn vì dĩ vãng ấy ảnh hưởng họ lâu quá, bám theo họ cả đời! Mà cái gì thái quá thì cũng không tốt. Lại thêm một vài bạn bè cũng hỏi về bài viết này. Thôi thì tôi lại phím nghiệp vài câu.

 

1. TỪ CHUYỆN ẨM THỰC LÀ CÁI BÁNH CHƯNG – MỘT LÝ DO GÂY TRANH CÃI…

 

Tôi đã từng có một bài viết về gu thưởng thức ẩm thực của con người. Trong đó đại ý tôi nói rằng:

.

1.1. Món ăn ngon hay dở là tùy vào khẩu vị cá nhân, nên đừng chê người khác chỉ vì họ ăn không giống mình.

 

Chuyện đánh giá món ăn ngon dở hoàn toàn thuộc về chuyện của khẩu vị và cảm giác của cá nhân. Ngoài ra còn rất nhiều yếu tố khác tác động như ăn lúc no hay lúc đang đói meo; khung cảnh ăn uống trông như thế nào, sang trọng, sạch sẽ hay nhếch nhác, bẩn thỉu; đi ăn với người yêu mình hay đi ăn với… kẻ thù; lứa tuổi đi ăn là trẻ con, thanh niên hay người già, thái độ phục vụ của nhân viên, hay sự dũng cảm thử món mới trong ẩm thực của từng người… Cho nên có những người coi phở Bát Đàn là ngon, có người thích phở Thìn Lò Đúc, có người thích phở Thìn Bờ Hồ… nhưng cũng có những người chê các hàng phở ấy mà chỉ thích ăn phở Vui, phở Sướng, phở Hàng Đồng… Gần đây lại có người chê những ai ăn phở nhiều thịt là… trọc phú. Người mà lên giọng chê bai người khác như thế chỉ vì họ ăn không đúng như mình ăn thì người đó vừa vô duyên, vừa không có văn hóa.

.

1. 2. Văn hóa ẩm thực mang tính vùng miền và quốc gia rõ rệt, cho nên người miền/nước này đừng chê người miền/nước khác trong chuyện ăn uống.

 

Văn hóa ẩm thực còn tùy theo từng vùng miền. Các bạn miền Bắc vào miền Nam cứ chê món gì cũng ngọt, cũng cho đường, phở kiểu Nam sao lại có rau giá, tương đen, tại sao lại không có quẩy… và kêu ầm là không hợp khẩu vị. Nhưng các bạn miền Nam ra miền Bắc cũng kêu ca là phở không có rau, không nuốt nổi. Tại sao phải đòi hỏi món ăn giống nhau ở những nơi cách xa nhau hàng trăm, hàng ngàn cây số?

 

Nhiều bạn cho biết không quen ăn món Tây/Tàu và nếu ăn thì chê món nọ món kia. Tôi cũng tạm gọi là người có đi đâu đi đó chút ít, tôi cho rằng nên tôn trọng văn hóa ẩm thực của vùng miền, quốc gia. Văn hóa ẩm thực của vùng miền/quốc gia ra đời trên cơ sở nhiều yếu tố, từ thiên nhiên cho nuôi con gì, trồng cây gì, thời tiết, môi trường xung quanh, địa hình, thổ nhưỡng, con người… cho nên không thể đòi hỏi phở miền Bắc phải giống phở miền Nam, không thể bắt người Việt ăn bánh mì thay cơm hay bắt người Nga thôi uống rượu Vodka… Cho nên Tây Ninh mới nổi tiếng nhờ món bánh tráng Trảng Bàng phơi sương cuốn thịt heo luộc và kèm theo vô số loại rau lạ, nhưng món cuốn ở Đà Nẵng lại khác, mà món cuốn ở Hà Nội lại càng khác.

 

Tôi cho rằng chính sự phong phú về ẩm thực ở các vùng miền, quốc gia mới là điều thú vị. Thử tưởng tượng đi đến đâu món ăn cũng giống hệt nhau thì còn gì là thú vị và niềm vui thưởng thức, khám phá món mới nữa. Còn chuyện ăn có hợp khẩu vị hay không, có cảm thấy ngon miệng hay không là tùy vào cảm nhận của mỗi cá nhân. Nhưng không vì thế mà chúng ta chê bai một cách mất lịch sự giữa chốn công cộng.

.

1.3. Văn hóa ẩm thực có sự biến đổi theo thời gian và có sự học hỏi, pha trộn với nhau.

 

Cũng lại nói chuyện về nhiều người cứ bất biến cho rằng: “Chuẩn hương vị xưa mới ngon”. Thật ra các món ăn không thể đòi hỏi hoàn toàn giống như 100 năm về trước và còn tùy thuộc rất nhiều vào cách nấu của mỗi người, mỗi gia đình. Chẳng hạn ngay như một món là món cuốn, cũng có thể rất khác nhau tùy theo người làm bếp. Ngay ở Hà Nội, nếu hỏi cách làm món cuốn như thế nào, tôi bảo đảm gần như mỗi gia đình sẽ làm theo một kiểu khác nhau. Vì vậy, đừng cho rằng “cái chuẩn” của mình là đại diện cho tất cả, đừng cho rằng chỉ có “cái chuẩn” của mình là đúng, còn người khác là sai bét.

 

Khi tôi sang Ấn Độ, tôi thấy món cà ri (curry) chính gốc Ấn khác hẳn món cà ri của người Việt. Sang Singapore, Indonesia, Malaysia hay Myanmar…, món cà ri lại biến đổi khác nữa. Một ví dụ rành rành nhất mà ai trong số chúng ta cũng nhận thấy: món bánh mì kẹp thịt của Việt Nam khác xa với nguồn gốc của nó ở phương Tây như thế nào.

 

Một con người có tư duy rộng mở, đi nhiều, đọc nhiều, tiếp xúc với nhiều tầng lớp, thì thường sẽ dễ dàng nhìn nhận những sự khác biệt trong văn hóa ẩm thực của từng vùng miền, quốc gia, đồng thời chấp nhận sự biến đổi, thêm bớt của ẩm thực. Cá nhân chúng ta có quyền thích hay không thích sự khác biệt hay thay đổi đó. Nhưng đừng bắt người khác phải khen chê giống mình, bắt họ phải ăn theo mình và nếu có người như vậy, thì chỉ là hạng người bảo thủ, tự tôn, coi mình là nhất, hay là “ếch ngồi đáy giếng” mà thôi.

.

1. 4. Người Việt và tư duy, sở thích “mì tôm” trong ẩm thực

 

Thật ra tôi muốn nói về tư duy, sở thích “mì tôm” là để chỉ một bộ phận không nhỏ người Việt không thể xa rời những món ăn quen thuộc đối với họ, dù chỉ là trong một thời gian ngắn. Ở đây tôi không nói đến những người Việt định cư ở nước ngoài, hay những gia đình đa quốc gia, lấy vợ/chồng người nước ngoài. Ở những gia đình ấy, thường việc ăn uống cũng mang tính chất “ẩm thực đa quốc gia”. Tôi chỉ muốn nói đến một hiện tượng cụ thể, đó là rất nhiều người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ từ trung niên trở lên, thường khi đi du lịch, công tác ở nước ngoài, không quen với những món ăn nước ngoài hay ngại ngần không dám thử và luôn thủ trong vali những gói mì tôm, chà bông hay thậm chí lén mang theo cả chai nước mắm. Những chuyện này tôi đã chứng kiến quá nhiều lần khi cùng với nhiều người Việt đi du lịch hay công tác nước ngoài. Nếu đã đi du lịch, công tác, đặc biệt là đi nước ngoài, thì không nên đòi hỏi phải ăn uống giống y như ở nhà, mà nên để bản thân mình khám phá thử ẩm thực ở những miền đất mới. Chứ nếu muốn ăn giống y như ở nhà, thì thôi, có lẽ cứ nên ở nhà cho yên chuyện và dễ thỏa mãn sở thích của mình. Tất nhiên ăn uống thì luôn là khẩu vị cá nhân, song khi đến một miền đất mới, thử những món ăn lạ, cũng là một điều thú vị của những ai thích “xê dịch”. Có món chúng ta không hợp, nhưng biết đâu cũng có món chúng ta thấy ngon và cũng có thể có những món chúng ta chỉ nếm được một lần trong đời thì sao. Vậy nên đến những miền đất mới, hãy tạm gác “mì tôm” lại, thử ăn món mới đi đã, nếu không ăn được thì hãy quay về với “mì tôm” cũng chưa muộn.

 

Nói về ẩm thực thì nói có đến “ngàn lẻ một đêm” cũng không hết chuyện. Ở đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều: Ẩm thực luôn là khẩu vị cá nhân và chúng ta nên tôn trọng khẩu vị của nhau nếu chúng ta là những con người văn minh. Giờ bước sang thế kỷ XXI cũng đã hơn 20 năm rồi, thiết tưởng chúng ta, bất cứ ai có hiểu biết và có học hành đôi chút đều phải biết một điều rằng: nên tôn trọng quyền tự do cá nhân và sở thích riêng, miễn điều đó không đụng chạm, ảnh hưởng đến ai và trong khuôn khổ luật pháp cho phép, huống chi đó là một vấn đề dễ gây tranh cãi như ẩm thực.

 

Thế nên khi nhà văn Phạm Thị Hoài chê cái bánh chưng ngày Tết, tôi nghĩ rằng đó là quyền cá nhân của chị. Chị không thích bánh chưng, nhưng người khác thích và họ phản ứng lại. Tôi cho rằng đây là chuyện bình thường, là sự va chạm giữa những sở thích ẩm thực trái ngược nhau. Chẳng có việc gì phải kết tội chị ấy là phỉ báng truyền thống văn hóa dân tộc cả, cũng đừng chê hai miếng bánh chưng là giống bánh ngọt như trong ảnh chị ấy post lên, bởi vì ăn theo sở thích nào, làm bánh chưng theo kiểu gì là quyền của chị Phạm Thị Hoài. Chị ấy có bắt chúng ta ăn theo chị ấy hay chê bánh chưng theo chị ấy đâu.

 

Nhưng, cái gì cũng có chữ “nhưng” nên mới thành ra chuyện!

 

Cá nhân tôi thì thỉnh thoảng cũng ăn bánh chưng. Có khi tôi thích vì ăn được một miếng bánh chưng ngon, nhưng cũng có khi chán, vì ăn phải miếng bánh dở quá. Nhưng khi đọc bài viết “Các vua Hùng đã có công” của chị Phạm Thị Hoài, tôi trộm nghĩ có khi nào cả đời chị ấy không được ăn một miếng bánh chưng ngon. Thế nên chị ấy mới miêu tả về bánh chưng như sau: “bánh chưng là một thứ văn xuôi thô, nặng, dềnh dàng, xơi một góc đã nghẹn và hứa hẹn từ phần còn lại là bội thực. Lá gói lạt buộc hì hục, nấu như kháng chiến trường kỳ, song công phu vất vả thế vẫn chưa hết. Cái kiệt tác của ẩm thực dân tộc ấy đầy nguy cơ nhão nhoét, thiu, mốc, sống, sượng, chưa kể động thái lại gạo khét tiếng, cộng thêm bước bóc bánh nên gọi chân thành là tra tấn và thực tế chắc chắn là chỉ sau một đũa xắn nó sẽ mất trắng tổng thể nghệ thuật và mỗi phút một hết cả xanh lẫn rền để cuối bữa chỉ còn là một di tích lạnh lẽo, xám xịt, tả tơi trên mâm cỗ.” Có lẽ ký ức về một thời ăn bánh chưng dở ẹt ấy đã khiến cho chị Phạm Thị Hoài không có cảm tình với món bánh chưng ngày Tết.

 

Thay vào đó chị Phạm Thị Hoài bồi hồi hoài niệm về món phở chó, một món ăn mà tôi nghe tên đã thấy rùng mình sợ hãi và tôi tin rằng nhiều người cũng có cùng cảm giác giống như tôi. Nhưng mà thôi, như tôi đã nói ở trên, sở thích ăn uống là chuyện cá nhân của mỗi người, không ai có quyền lên án ai cả hay bắt ai phải yêu ghét món này món kia theo mình. Chỉ là chị Phạm Thị Hoài body shaming cái bánh chưng nên tôi bắt chước chị, tôi body shaming chị với hàm ý đùa vui. Tôi chỉ ái ngại cho… tuổi già và có lẽ thừa cholesterol của chị Hoài khi mà chị bị ám ảnh bánh chưng vì “vài chục năm sau, chúng là những bom tấn cholesterol mà tôi ngần ngại hơn thương nhớ.” Theo quan điểm về nữ quyền của tôi thì: Phụ nữ không chỉ có quyền làm đẹp mà còn có quyền làm xấu, quyền chăm sóc hay quyền không thèm bảo vệ sức khỏe của bản thân. Vậy mới đích thực là nữ quyền. Tuy nhiên tôi vẫn thích những phụ nữ nghĩ rằng tuổi tác chỉ là con số và già, béo, thừa cholesterol… chỉ là những khái niệm không tồn tại trong cuộc đời của mình.

 

Những câu chị Phạm Thị Hoài viết như thế này là nhận định của riêng chị: “Bánh chưng là kỳ vọng của thời lo thiếu ăn đang nhường chỗ cho thời sợ thừa cân. Là hiện thân của một nền ẩm thực với kỹ thuật nấu nướng đơn giản, quy trình chế biến thuần tuyến tính, nguyên vật liệu thông dụng, khẩu vị bỗ bã đại trà và tập quán sinh hoạt đơn sơ, chưa bao giờ phát triển đến đỉnh cao để có thể decadent, sành điệu và đồi trụy, như nghệ thuật nấu ăn của Pháp và Trung Hoa, hai cường quốc ẩm thực đã đô hộ bếp Việt để cho nó những tiềm năng lý tưởng nếu nó biết tự giải phóng.” Nếu nói như vậy tức là chị đánh giá thấp ẩm thực Việt Nam nói chung và cái bánh chưng nói riêng. Tất nhiên tôi nhắc lại là chị có quyền đánh giá ẩm thực Việt Nam theo cái chuẩn của riêng chị. Nhưng tôi không nghĩ rằng bánh chưng Việt Nam là làm đơn giản như chị nói ở trên. Để có một nồi bánh chưng ngon là một thử thách không nhỏ cho những đầu bếp. Trở lại vấn đề hồi nãy tôi từng nói: Có lẽ nào đời chị chỉ toàn được ăn những bánh chưng gói vụng với nếp dở và thịt, đậu loại xoàng? Song tôi cũng phải cập nhật kiến thức cho chị rằng ở Việt Nam hiện nay bánh chưng không chỉ phổ biến trong ngày Tết mà còn trở thành một món ăn hàng ngày, bán rộng rãi trong các siêu thị hay bán online với đủ các size bánh lớn nhỏ, với những bánh chưng của người dân tộc như bánh chưng gù của người Tày, bánh chưng đen cũng của dân tộc Tày, bánh chưng thảo dược của dân tộc Mường hay bánh chưng chay của dân tộc Việt. Xuôi về phương Nam chúng ta có đủ kiểu bánh tét như: bánh tét nếp cẩm, bánh tét nhân chuối, bánh tét nhân trứng muối, bánh tét ngũ sắc v.v… Chính vì thế nhận định của chị Phạm Thị Hoài: “Trong các món Tết, bánh chưng ít cơ hội tự giải phóng nhất” có lẽ là không đúng. Ngày nay người dân Việt Nam ngoài việc coi bánh chưng là một món ăn truyền thống của ngày Tết, họ còn xem như một món ăn hàng ngày, có thể là ăn thay bữa chính, có thể là ăn chơi, ăn vặt. Thêm một nhận định của chị cũng không chính xác: “Người anh em song sinh của nó, bánh giầy, đã từ lâu được giải linh, bỏ gánh nặng biểu tượng trời tròn sau lưng mà vui sống kiếp nhẹ tênh món ăn vặt hàng ngày đầu ngõ.” Thật ra chẳng phải bánh giầy giải linh gì cả mà chỉ đơn giản là ngày tết truyền thống xưa thì các món ăn đều để được lâu, nhưng bánh giầy với thời tiết lạnh như ở miền Bắc thì để lâu sẽ cứng và khó ăn. Vì thế nên dần dần chẳng ai cúng bánh giầy ngày Tết mà nó trở thành một món ăn vặt, ăn chơi.

 

Tôi cũng không đồng tình với nhận xét của chị Phạm Thị Hoài khi cho rằng: “Từ lúc phở có chút danh ở năm châu, mỗi người Việt lập tức thành một vệ binh phở trong cuộc thánh chiến phở, rủa xả chỉ trích không thương tiếc những kẻ dám xúc phạm phở, xúc phạm văn hóa ẩm thực truyền thống, xúc phạm dân tộc, xúc phạm con người và đất nước Việt Nam, như thể các vua Hùng đã có công nấu phở.” Dù biết chị Phạm Thị Hoài rất thích sử dụng thủ pháp thậm xưng trong khi viết văn nhưng tôi hơi ngạc nhiên khi chị chỉ tập trung lên án người Việt Nam là những “vệ binh phở”. Không lẽ chị Phạm Thị Hoài sống ở nước ngoài mấy chục năm, tự nhận là người đi nhiều, biết nhiều, mà lại không biết rằng đối với bất cứ dân tộc nào, khi đụng đến ẩm thực truyền thống là gần như mỗi người dân đều là những vệ binh nhiệt thành. Trung Quốc và Hàn Quốc đã nhiều lần cãi nhau về món kim chi hay là món dưa muối. Chị Phạm Thị Hoài hãy thử chê pizza và các loại mì Ý, thử chê món gà tây trong lễ Giáng sinh của người Anh, thử chê ẩm thực Pháp với những người dân nước ấy… Tôi tin rằng khi ấy cũng rất dễ dẫn đến cuộc “thánh chiến ẩm thực” như lời của chị Phạm Thị Hoài. Thế nên chị đừng mỉa mai người Việt Nam. Và đáng ngạc nhiên thay, khi đã biết rằng viết về ẩm thực thì rất dễ dẫn đến “thánh chiến”, bản thân chị cũng lên án điều đó, vậy thì tại sao chị Phạm Thị Hoài lại chủ ý viết một bài mà tôi cho rằng đã dẫn đến một cuộc “thánh chiến” trên mạng những ngày đầu năm mới. Có phải chăng theo ngôn ngữ của giới trẻ bây giờ là nhân ngày Tết nên chị lôi cái bánh chưng ra để “đu fame”?

 

Nhân thể, tôi cũng bổ sung cho chị Phạm Thị Hoài thêm chút kiến thức về nhà hàng Michelin. Chị viết là: “Những nhà hàng Michelin tôi đã đặt chân có thể để lại vài gợi ý, nhất là về các món khai vị, và cảm giác chủ đạo là vừa cắt phăng một góc thẻ nhà băng”. Chị Hoài đừng nghĩ rằng cứ là nhà hàng có dấu sao Michelin thì phải sang trọng, ăn ngon và đắt tiền nên chị đau xót nghĩ đến cái thẻ nhà băng của chị. Dĩ nhiên là có nhiều nhà hàng Michelin làm chị đau xót cho cái thẻ nhà băng của chị, nhưng không phải nhà hàng Michelin nào cũng sang chảnh và có lịch sử lâu đời đâu ạ. Cũng có những quán ăn Michelin đơn giản hơn nhiều. Ví dụ nếu chị đến Kailang, Singapore, mời chị ghé quán ăn vỉa hè Hill Street Tai Hwa Pork Noodle, quán này được 1 sao Michelin đấy ạ. Hay nếu đến Hongkong thì mời chị ghé ăn thử món dimsum Tim Ho Wan. Đảm bảo một vài trăm ngàn VNĐ là chị đủ thưởng thức rồi. Còn nếu tiện đường lang thang ở Châu Âu mà muốn sang chảnh nhưng vẫn không quá đắt, mời chị Hoài ghé nhà hàng Azurmendi ở Tây Ban Nha ba sao Michelin với giá 250 euro một set cho một người. Còn nếu không thì chị ghé nhà hàng Eneko một sao Michelin cũng ở Tây Ban Nha với giá khoảng 150 euro cho set hai người.

 

Tôi túm cái váy ngắn lại là chị Phạm Thị Hoài có quyền chê bánh chưng, có quyền cải tiến bánh chưng cho phù hợp với cholesterol của cái tuổi già đang xồng xộc đến, có quyền khen phở chó, có quyền chê dân Việt Nam thánh chiến vì phở, chê ẩm thực Việt tồi tệ “với kỹ thuật nấu nướng đơn giản, quy trình chế biến thuần tuyến tính, nguyên vật liệu thông dụng, khẩu vị bỗ bã đại trà và tập quán sinh hoạt đơn sơ”, có quyền đau lòng cho thẻ nhà băng vì đi ăn ở nhà hàng có sao Michelin vì đó là sở thích ẩm thực của cá nhân và tự do ngôn luận. Song chị Phạm Thị Hoài nên cập nhật chút ít kiến thức như tôi đã viết để tránh những điều chị viết mà chưa tới, chưa đủ góc nhìn, để xứng với danh là một nhà văn nổi tiếng, xuất thân từ nông thôn tỉnh Hải Dương nhưng đi nhiều, biết nhiều và học Đại học Humboldt danh tiếng với chuyên ngành “Văn thư lưu trữ”, và đang sống ở Đức, trung tâm của Châu Âu từ mấy chục năm nay.

.

2. ĐẾN CHUYỆN VĂN CHƯƠNG ĐẰNG SAU CÁI BÁNH CHƯNG MƯỢN CỚ

.

Nhiều bạn văn chương và độc giả của chị Phạm Thị Hoài khen chị hết lời là đầu năm chị đã có một bài viết hay, gây tranh cãi, và khi công chúng đang tranh cãi thì chị Phạm Thị Hoài đang cười thích thú vì sự tranh cãi này. Tôi ngạc nhiên vô cùng vì những người nói ra câu đó là những người tự xưng là bạn văn tri kỷ của chị. Nếu viết một bài viết chỉ để gây tranh cãi bằng cách lấy cái bánh chưng vô tội ra để làm đề tài nhân dịp Tết cổ truyền của người Việt, thì xem ra khá giống những chiêu trò vụng về đánh bóng tên tuổi, “đu fame” như các bạn trẻ ngày nay nói. Nếu tôi đi viết văn mà có những bạn văn kiểu đó chắc là tôi không dám.. nhận là bạn.

 

Một số bạn văn chương khác khẳng định rằng chị Phạm Thị Hoài nói đến cái bánh chưng chỉ là mượn cớ để nói đến thứ “văn cúng cụ” ở Việt Nam, giễu cợt thứ văn chương dở của nền văn học Việt Nam. “Văn bánh chưng là văn to nhưng không lớn, rắc rối nhưng không phức tạp, lớp trong lớp ngoài nhưng không đa tầng, nghiêm nhưng không cẩn. Đã thế lại là văn cúng cụ, nhất định phải đặt lên bàn thờ.”

 

Nhìn từ phương diện văn chương, khi nói đến thứ “văn cúng cụ” tôi hiểu là ý chị Phạm Thị Hoài nói đến thứ văn chương nhằm phục vụ, ca ngợi cho những vấn đề, nhân vật, thể chế… nào đó và vì thế theo chị là không có giá trị. Tuy nhiên như tôi đã nói, có lẽ vì học về văn thư lưu trữ (Archival Studies) nên chắc chị Hoài còn thiếu chút kiến thức về văn chương. Văn chương cúng cụ và những nhà văn, nhà thơ cung đình đã xuất hiện từ hàng ngàn năm nay trong lịch sử văn học phương Đông và phương Tây. Lý Bạch cũng từng là nhà thơ cung đình. Cả ở phương Đông và phương Tây đã tồn tại dòng “văn học cung đình” (court literature). Có những thể văn chương mà ngày nay chúng ta có thể gọi là “văn cúng cụ” nhưng ngày trước chúng là những thể văn quan phương như chiếu, biểu, cáo, hịch, văn tế v.v… Hay “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ, Việt Nam cũng có thể gọi là văn cúng cụ. Đơn giản vì những thể văn ấy có những chức năng riêng, phù hợp với hoàn cảnh, thời đại của chúng. Ngày nay lý luận văn học dùng cái mỹ từ là các thể loại “cận văn học” để gọi chúng. Trong văn chương, có lẽ cần phải nhắc lại một nguyên tắc cơ bản này cho chị Phạm Thị Hoài rõ: Không có thể loại văn học nào là dở (kể cả văn cúng cụ) mà chỉ có tác giả viết dở, nội dung dở thôi ạ. Chị Phạm Thị Hoài xin đừng nhầm lẫn giữa thể loại và nội dung cũng như tác giả. Thế nên nếu có chê “văn cúng cụ”, rất mong chị Hoài hiểu rõ về tính chất của thứ văn chương này.

.

3. NÊN QUAN NIỆM CHUYỆN TRANH CÃI XUNG QUANH “CÁI BÁNH CHƯNG VĂN CHƯƠNG CÚNG CỤ” LÀ CHUYỆN BÌNH THƯỜNG

.

Việc chị Phạm Thị Hoài chê văn cúng cụ cũng là lẽ bình thường. Khi cùng bàn luận về một cuốn sách, luôn có những ý kiến khác nhau. Các con số là tuyệt đối nhưng đặt nó trong mối tương quan với con người thì sự cảm nhận lại không giống nhau. Có thể đối với một người, 1000 cuốn sách là rất nhiều, đối với người thứ 2, là vô cùng nhiều, nhưng đối với người thứ 3 là bình thường và đối với người thứ 4 thì là ít. Các con số đo đếm được đã là như vậy, huống chi là các cuốn sách hay tác phẩm văn học. Nếu trong đời sống xã hội, mọi hành động con người đều phải tuân thủ theo một số quy tắc nhất định, thì trong tư duy, trong cảm nghĩ, con người được tự do tuyệt đối. Nhưng thể hiện tư duy, cảm nghĩ ấy ra ngoài như thế nào thì lại do chính con người chọn lựa để cho phù hợp với xã hội đang sống và ngược lại, chính những tiêu chuẩn của xã hội đang sống cũng tác động đến sự lựa chọn đó.

 

Nhận xét về sách hay tác phẩm văn học cũng là một trong những hoạt động tư duy tự do tuyệt đối. Đọc một tác phẩm, chúng ta có thể vừa suy nghĩ, vừa cảm nghĩ về nó. Mà con người luôn tồn tại như những cá thể độc lập trong tư duy (dù xã hội vẫn tồn tại không ít người nghĩ theo tư duy của người khác). Cùng một tác phẩm có thể có vô vàn ý kiến khen chê khác nhau, bởi lẽ các suy nghĩ của con người có thể rất khác nhau. Cho nên chúng ta có ý kiến khác nhau về một tác phẩm hay một dòng văn học cũng là lẽ thường tình.

 

Chúng ta đồng ý là có những giá trị văn học và có những cuốn sách được liệt vào hàng cổ điển và luôn được xưng tụng. Nhưng đó chỉ là sự đánh giá chính thức mang tính chất hàn lâm. Con người thì phần nhiều là con người của đời thường, mấy ai để tâm đến sự đánh giá ấy. Ở Việt Nam, “Truyện Kiều” là kiệt tác văn học của dân tộc, nhưng có lẽ ở thời điểm hiện tại, chắc chắn không nhiều bạn trẻ đọc “Truyện Kiều” bên ngoài chương trình học ở trong nhà trường. “Hồng lâu mộng” là một trong “Tứ đại kỳ thư” của Trung Quốc, có hẳn ngành nghiên cứu “Hồng học”, có tập san chỉ chuyên bàn về “Hồng lâu mộng”, nhưng không phải người Trung Quốc nào cũng thích tác phẩm này.

 

Chính vì quan tâm đến sự đánh giá khác nhau của người đọc đối với tác phẩm văn học, nên trong nghiên cứu văn học, có một lĩnh vực gọi là lý thuyết tiếp nhận văn học. Tiếp nhận văn học sử dụng nhiều công cụ nghiên cứu của xã hội học và xét trên một phương diện nào đó, nó gần gũi với ngành nghiên cứu xã hội học văn học. Trong tiếp nhận văn học, có nhiều nội dung khác nhau, chẳng hạn như đề cập đến quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng như là cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa sáng tác và tiếp nhận văn học. Hoặc là xét đến mối quan hệ theo trình tự: tác giả – tác phẩm – người đọc với những khái niệm chuyên biệt như: người đọc, người tiếp nhận, người đọc hiện thực, người đọc lý tưởng, người đọc hư tưởng v.v… Tiếp nhận văn học cũng đề cập đến vai trò tích cực của người đọc, sự tương tác giữa người đọc và tác phẩm, các kiểu tiếp nhận tác phẩm, các cấp độ tiếp nhận, các điều kiện tiếp nhận, tiếp nhận văn học như là một quá trình…

 

Nói vắn tắt một cách dễ hiểu thì tác phẩm văn học được tác giả sáng tác không phải chỉ để dành riêng cho mình mà để dành cho một hoạt động đặc biệt, tức là hoạt động đọc của con người. Người đọc tiếp nhận tác phẩm văn học với những động lực và nhu cầu khác nhau. Phổ biến nhất là nhu cầu giải trí, sau đó là đến nhu cầu hiểu biết, nhu cầu phát hiện, đánh giá, nhận xét, bình luận. Do vậy, khi tiếp nhận văn học người đọc thường luôn ở thái độ chủ động, tích cực và có quyền lựa chọn tác phẩm này hay tác phẩm kia.

 

Tính chủ quan luôn là tiền đề cho mọi hoạt động đọc của con người. Người đọc tiếp nhận tác phẩm với những tâm trạng buồn vui khác nhau, có trình độ văn hóa khác nhau, xuất thân từ những nghề nghiệp khác nhau, có độ tuổi và giới tính khác nhau, có thái độ khác nhau và ở sống những thời điểm khác nhau trong lịch sử. Kết quả là có bao nhiêu người đọc một tác phẩm, thì sẽ bấy nhiêu cách tiếp nhận. Người khen, kẻ chê, người thì hứng thú với chi tiết này, người thì khó chịu với chi tiết kia. Có những cách tiếp nhận sâu sắc, cũng có những cách tiếp nhận hời hợt, nhưng nói chung, mọi người đều có quyền xây dựng những cách hiểu riêng của mình về tác phẩm. Và rất nhiều khi, các cách hiểu riêng ấy lại trùng hợp với nhau. Khi ấy tác phẩm văn học thường được số đông đồng ý cho là hay (hoặc dở). Mặt khác, khi đến với một tác phẩm văn học, người đọc thường có sẵn một “tầm đón nhận”, tức là những thị hiếu có sẵn trước khi đọc một tác phẩm nào đó, phụ thuộc vào sự hiểu biết, tri thức cá nhân, tình cảm, quan niệm, lứa tuổi, giới tính… Do vậy sẽ xảy ra hiện tượng là thấy cuốn sách này hay vì phù hợp với tầm đón nhận của mình, hoặc thấy không hay, thấy lúng túng vì xa lạ với tầm đón nhận sẵn có. Nhưng tầm đón nhận cũng sẽ thường xuyên thay đổi thông qua việc đọc tác phẩm văn học, cho nên ở những thời điểm khác nhau, người đọc có thể có những đánh giá khác nhau về cùng một tác phẩm.

 

Nhìn từ góc độ của lý thuyết phê bình phản hồi của người đọc (Reader response theory) chúng ta sẽ hiểu thêm về sự phân hóa, tranh cãi xung quanh bài viết của chị Phạm Thị Hoài. Đây là một khuynh hướng cùng với lý thuyết tiếp nhận (Reception theory) phổ biến ở Âu Mỹ từ thập niên 70 của thế kỷ XX. Nếu ở châu Âu, tiêu biểu là ở Đức, lý thuyết tiếp nhận được biết đến với cái tên “Rezeptionsästhetik” (Mỹ học tiếp nhận) của trường phái Konstanz với hai nhân vật đại biểu là Hans Robert Jauss (1921 – 1997) và Wolfgang Iser (1926 – 2007) thì ở Mỹ, lý thuyết phê bình phản hồi của người đọc (Reader response theory) thường được biết đến nhờ tên tuổi của Stanley Fish, Louise Rosenblatt, Jonathan Culler.

 

Lý thuyết phê bình phản hồi của người đọc đúng như tên gọi, “response” trong tiếng Anh là sự phản hồi, hưởng ứng, hồi đáp… “Reader response theory” là lý thuyết nghiên cứu về những sự phản hồi của người đọc khi đọc các tác phẩm văn chương. Từ trước đến giờ, các lý thuyết nghiên cứu văn học truyền thống chú trọng vào nghiên cứu tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh lịch sử khiến tác phẩm ra đời, nghiên cứu nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học, nghiên cứu các khuynh hướng, trường phái văn học… Nhưng từ thập niên 70 của thế kỷ XX, người đọc tác phẩm trở thành một yếu tố nghiên cứu quan trọng.

 

Charles R. Cooper cho rằng bản thân lý thuyết này với từ khóa “response to literature” (phản hồi văn học” đã thể hiện được các giá trị sau: Thứ nhất, phản ánh được đầy đủ quá trình đọc, tìm tòi, giải mã, hiểu biết, giải thích văn bản… Không những thế còn phản ánh được đầy đủ những cảm xúc, suy tư, định kiến của cá nhân cũng như thị hiếu, sở thích, cá tính, vốn văn hóa, cách nhìn nhận về văn chương. Thứ hai, nhấn mạnh được vai trò quan trọng của người đọc, bởi vì một tác phẩm không có người đọc, không công bố ra công chúng là một tác phẩm chết. Thứ ba, mở rộng sự đánh giá, liên tưởng, tầm nhìn của người đọc không chỉ trong khi đọc tác phẩm mà còn là sau khi đọc. Thứ tư, phù hợp với truyền thống nghiên cứu văn học và dạy học văn học ở Mỹ và các nước phương Tây. (Charles R. Cooper, 1989, “Researching response to literature and the teaching of literature: Points of departure”, Ablex Publishing Corporation, New Jersey).

 

Lý thuyết phê bình phản hồi của người đọc khẳng định việc đọc là một lĩnh vực của nghiên cứu văn học và tập trung nghiên cứu các vấn đề sau: Những gì xảy ra khi độc giả đọc tác phẩm văn chương, vai trò của người đọc đối với văn bản, vai trò của văn bản đối với người đọc, người đọc tiếp nhận tác phẩm văn chương chủ động hay thụ động, tại sao mỗi người đọc lại phản hồi về tác phẩm văn học theo những cách riêng?…

 

Lý thuyết phê bình phản hồi của người đọc cho rằng văn bản văn chương là một văn bản chưa hoàn chỉnh và chỉ được hoàn tất bởi sự đọc. Wolfgang Iser khẳng định: “Chỉ khi được độc giả đọc, văn bản văn học mới sinh ra hiệu ứng ý nghĩa, vì vậy miêu tả những phản hồi của người đọc cần được tiến hành đồng thời với việc nghiên cứu quá trình đọc. Từ đó hành động đọc trở thành tiêu điểm của việc nghiên cứu, bởi vì nó dẫn đến một loạt những hoạt động vừa phụ thuộc vào văn bản tác phẩm vừa dựa vào sự phát huy những năng lực của người đọc. Hiệu quả (effect) và phản hồi (response) không phải là đặc tính của văn bản, cũng không phải là đặc tính của độc giả; mà văn bản hàm chứa những hiệu quả tiềm ẩn trong nó và hành động đọc sẽ khiến cho hiệu quả tiềm ẩn ấy được thực hiện” (Wolfgang Iser, 1978. “The Act of Reading: A Theory of Aesthetic Response”, The Johns Hopkins University Press). Mặt khác, văn bản văn chương có tính mở, tính bất định và tạo điều kiện cho vô vàn cách đọc hiểu về nó. Từ đó có thể thấy ý nghĩa của văn chương không chỉ dừng lại ở văn bản, mà còn ở các ý nghĩa mà người đọc gán cho văn bản đó. Do vậy, người đọc có thể đóng vai trò đồng sáng tạo ý nghĩa với tác giả của tác phẩm và sự tiếp nhận này phụ thuộc rất nhiều vào những vấn đề cá nhân của người đọc.

 

Viện phản hồi khác nhau của người đọc được Louise Rosenblatt nhấn mạnh: “Bằng các phương tiện ngôn ngữ, văn bản tác phẩm đem đến cho ý thức của người đọc những ý tưởng, ý niệm, những trải nghiệm đã qua, những hình ảnh về nơi chốn, con người, hoạt động, hay khung cảnh nào đó. Những ý nghĩa riêng biệt này, đặc biệt là những liên tưởng đã bị che mờ từ trong quá khứ mà từ ngữ và hình ảnh của tác phẩm gợi lên cho người đọc sẽ khiến cho người đọc khẳng định những điều tác phẩm muốn truyền đạt, nhắn gửi. Khi đọc tác phẩm, người đọc mang đến cho tác phẩm những đặc điểm cá nhân mình như tính cách, cá tính, những kí ức về quá khứ, những nhu cầu và suy tư về hiện tại, ngoài ra còn là những khoảnh khắc tâm trạng cụ thể nào đó khi đọc. Những yếu tố này và nhiều yếu tố khác nữa sẽ tạo ra sự phản hồi độc đáo của người đọc góp phần vào việc tạo ra ý nghĩa cho văn bản, mà không bao giờ lặp lại ở người khác” (Dẫn theo Richard Beach, 1993, “A teacher’s introduction to reader-response theories”, National Council of Teachers of English, Urbana, Illinois.) Nếu đối chiếu quan niệm này với những gì chị Phạm Thị Hoài viết về cái bánh chưng, về vua Hùng, về truyền thống của dân tộc Việt, chúng ta sẽ hiểu vì sao bài viết của chị gây tranh cãi kịch liệt ở những độc giả khác nhau, bởi vì trong đặc điểm cá nhân của mỗi độc giả đã có một “chân trời tiếp nhận” của riêng mình. Nói nôm na thì ẩm thực cũng vậy. Có người cả đời do hoàn cảnh chỉ được ăn những món ăn Việt đơn giản, dở tệ nên dĩ nhiên sẽ thấy ẩm thực Việt thật khủng khiếp, và có người thì ngược lại.

 

Sau khi nói đến những lý thuyết dễ làm đau đầu các độc giả, tôi trở lại với chuyện chị Phạm Thị Hoài lôi vua Hùng và cái bánh chưng Lang Liêu để nói đến văn chương. Nói lý thuyết thì dài, nhưng tôi lại túm cái váy ngắn lại lần hai là: Do trình độ, nhận thức của chị Phạm Thị Hoài nên chị ấy ghét cay ghét đắng thứ văn chương cúng cụ và cũng do trình độ, nhận thức, sự yêu ghét rất khác nhau của độc giả đối với văn chương của chị Phạm Thị Hoài, cho nên bài viết của chị đã gây ra những tranh cãi dữ dội trong những ngày đầu năm mới. Đây cũng là một chuyện bình thường của văn chương, huống chi bài viết lại mượn cớ cái bánh chưng truyền thống để nói, mà xưa nay ẩm thực cũng như văn chương là hai điều dễ gây tranh cãi hơn cả.

.

4. CẢM NGHĨ CỦA TÔI: LỐI VIẾT VĂN CHỬI NHƯ BÀ HÀNG XÓM MẤT GÀ “NHIỀU CHỮ MÀ ÍT NGHĨA” CHỨ KHÔNG RA CHẤT ĐẠI HỌC HUMBOLDT

.

Cũng có một số bạn hỏi tôi nghĩ gì về văn chương của chị Phạm Thị Hoài. Như đã nói ở trên, sau khi lôi hai lý thuyết tiếp nhận văn học và lý thuyết phê bình phản hồi của người đọc ra làm cái khiên để che chắn cho chính tôi, tôi mạnh dạn lên tiếng nhận xét:

 

Từ khi còn nhỏ tôi đã đọc những tác phẩm khiến cho chị Phạm Thị Hoài nổi tiếng như “Thiên sứ”, “Mari Sến”, “Mê lộ”, “Man Nương”, một số tác phẩm chị dịch của các nhà văn Đức, cũng như đọc trang Talawas đình đám một thời và cái blog Pro & Contra hiện nay của chị. Tôi nghĩ thế này:

.

4.1. Chị Phạm Thị Hoài xuất hiện đúng lúc, đúng thời điểm, chọn những vấn đề đúng lúc cần lên tiếng của một xã hội Việt Nam đang thay đổi, chuyển động. Chính vì thế những tác phẩm của chị được ca tụng, nhất là tầng lớp được gọi là trí thức ở Việt Nam và tầng lớp thị dân ca tụng khi mà những tác phẩm của chị đề cập đến những vấn đề trực diện của trí thức nói riêng và thị dân Việt Nam nói chung một thuở nào. Thêm một điều nữa là một lợi thế của chị, khi mà thời đó đề tài của chị ít ai viết, nên dễ trở thành món ăn tinh thần hấp dẫn của độc giả một thời. Mặt khác, lối viết châm biếm ngồn ngộn chữ và choang choang khái niệm, trích dẫn đẩy lên cao độ dễ làm choáng ngợp những ai ít hiểu biết, thành ra chửi rủa, móc ngoéo, cũng là một thứ “đặc sản” văn chương thời đấy, tạo luồng gió mới sau nhiều năm thịnh hành dòng văn chương tụng ca khuôn mẫu, cứng nhắc.

.

4.2. Sau khi ra nước ngoài định cư, chị Phạm Thị Hoài nhanh nhạy chuyển sang làm báo văn chương với việc thành lập trang Talawas từ cái thời mà mạng Internet chưa dễ tiếp cận ở Việt Nam. Với việc thẳng thắn đề cập đến những vấn đề nhạy cảm không chỉ là trong phạm vi của văn chương, với cái nhìn Tổ quốc từ xa, nên việc chị Phạm Thị Hoài vẫn tiếp tục nổi tiếng, không bị lãng quên như một số nhà văn xa xứ khác cũng là điều dễ hiểu. Sau này chị Phạm Thị Hoài vẫn dùng blog Pro & Contra và Facebook để phát ngôn cũng là một hình thức duy trì sự tương tác với công chúng và giữ độ hot cho tên tuổi của mình bằng những bài viết gai góc mà như bài về cái bánh chưng vô tội là một ví dụ.

.

4.3. Nhưng, tôi lại phải thốt lên chữ “nhưng”. Ai cũng có một dĩ vãng và nếu dĩ vãng ấy thành công thì đương nhiên là rất tốt và người ta có quyền nhớ về nó cũng như chị Phạm Thị Hoài nhớ mãi về món phở chó. Song một số bạn bè văn chương, độc giả văn chương có vẻ vì quá yêu mến, tôn sùng chị Phạm Thị Hoài nên nghĩ về quá khứ văn chương của chị hơi nhiều và mang cho chị vầng hào quang sang đến hiện tại. Tôi không phủ nhận thời đó chị Phạm Thị Hoài đã gây được tiếng vang trong làng văn Việt. Song tôi nghĩ tất cả những gì chị viết bây giờ chỉ là dư âm nối dài của cái thời xưa. Trong bài viết nhan đề “Gốc” post lên gần đây nhất, chị viết: “Tôi vốn tin rằng theo bất kỳ một nghĩa nào người ta cũng không thể mất gốc.” Có lẽ vì vậy mà hơn ba mươi năm qua, ngôn ngữ văn chương của chị vẫn không đổi, đề tài của chị vẫn không đổi, dù chị không còn ở Việt Nam từ năm 2000. Vẫn cơ bản là những vấn đề của Việt Nam, vẫn là lối viết móc ngoéo, chửi rủa và phô trương kiến thức, dễ hù chết những ai yếu bóng vía! Tôi nôm na gọi đó là lối văn chương chửi như bà hàng xóm mất gà chứ không ra chất đại học Humboldt đậm triết lý như tinh thần Đức, dù chị đã ở Đức nhiều năm. Có lẽ vì thế nên chị đã phòng xa lo cho thân mà viết trong bài viết “Gốc” là: “Phần đông các nghệ sĩ không sáng tạo gì hết. Một số ít sáng tạo trong một giai đoạn ngắn. Một số vô cùng ít sáng tạo tương đối lâu dài. May ra đếm trên đầu ngón tay được những nghệ sĩ suốt đời sáng tạo trong lịch sử nhân loại.”

.

Tôi lại túm cái váy ngắn lại lần thứ ba để nói rằng: Dù đã viết phòng xa như thế nhưng có lẽ sự sáng tạo của chị Phạm Thị Hoài vẫn tiếp tục. Chị vẫn viết đều đều. Chỉ có điều sự sáng tạo của chị không còn là món lạ, món mới đối với tôi như khi tôi còn nhỏ vì chị vẫn viết bằng cái giọng hơn ba mươi năm nay không thay đổi. Có lẽ cái bánh chưng văn chương của chị không là món ngon đối với tôi. Và nếu được hỏi vì sao cái bánh chưng văn chương Phạm Thị Hoài tôi ăn không thấy ngon, tôi thẳng thắn trả lời là: Viết nhiều chữ quá mà ít nghĩa nên ngấy, thế thôi!

 

 

166 BÌNH LUẬN   





No comments:

Post a Comment

View My Stats