21/01/2020
Nhân vụ Đồng Tâm, đọc lại lịch sử :
Nếu không có Đảng cộng sản, ngay từ năm 1945 dân tộc Việt Nam
đã có dân chủ, tự do
và nhân quyền
Do sự xuất hiện của Việt Minh, đúng hơn, Đảng
cộng sản Việt Nam, do đảng này cướp chính quyền ngày 19/8/1945, do sự phức
tạp của thời thế và sự nóng nảy muốn giành độc lập nhất thời của một số người
Việt, lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đã không những không biến chuyển như mọi người
mong muốn mà còn đầy rẫy những ngộ nhận, từ đó những oan khuất cần phải được
giải toả và làm sáng tỏ.
Hình ảnh Việt
Minh cướp chính quyền tại Hà Nội ngày 19/8/1945
Đây là một việc làm vô cùng khó khăn mà một vài cá
nhân khó có thể làm nổi. Tuy nhiên, tuy gọi là khó nhưng những người quan tâm
và hiểu biết ít nhiều vẫn phải làm để sau này sẽ có người tiếp tục và điều chỉnh.
Vì là một khoa học, sử học luôn luôn tiến bộ. Những gì gọi là đúng ngày hôm nay
có thể sẽ cần phải được ít ra là điều chỉnh và bổ khuyết ngày mai, để phơi
bầy sự thực lịch sử, không có gì gọi là chân lý vĩnh cửu trong môn học
này. Người học sử không thể chủ quan nhất định cho rằng điều mình nói, viết ra
hay được học mãi mãi là đúng, là chân lý bất di bất dịch.
Trong bài này cũng như một số bài trước, người viết
xin gửi tới các bạn đọc, đặc biệt là các nhà tranh đấu cho một nước Việt Nam tự
do và dân chủ, một vài nhận định về những gì Hoàng đế Bảo Đại và vị Thủ tướng đầu
tiên của nước Việt Nam độc lập là Nhà giáo kiêm Học giả Trần Trọng Kim cùng với
các bộ trưởng của ông, đã làm, trong một thời gian ngắn ngủi hơn ba thángcủa
năm 1945, từ ngày 8/5 đến ngày 6/8/1945, để xây dựng một chính thể dân chủ lâu
dài cho đất nước và ban hành các quyền tự do cho người dân từ cách nay trên 70
năm bằng những đạo luật phải nói là rất tiến bộ. Đây là một việc làm mà ba
phần tư thế kỷ sau, với ít nhất ba thế hệ đã qua đi một cách uổng phí, với
hàng triệu sinh mạng đã bị hy sinh cùng với máu và nước mắt của người dân lành
vô tội, người ta vẫn chưa muốn làm hay chưa làm được.
Bốn bước tiến ngoạn mục
Bốn bước tiến đã được Hoàng đế Bảo Đại thực hiện
trong thời gian này gồm có :
Thứ nhất : Ban hành dụ "Dân vi quý".
Thứ hai : Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại,
các thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một chính phủ mới.
Thứ ba : Thành lập các hội đồng chuyên môn để mọi
người có thể tham gia việc soạn thảo hiến pháp và các sinh hoạt quan trọng của
quốc gia.
Thứ tư : Ban hành các đạo dụ liên quan đến các quyền
tự do cơ bản của người dân.
Sau đây là những chi tiết liên hệ tới bốn bước tiến
kể trên :
Khẩu hiệu "Dân vi quý" của Hoàng đế Bảo Đại
Đây là khẩu hiệu của vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn
mà ai đã từng học sử Việt Nam đều biết và cũng là bước tiến đầu tiên của vị
hoàng đế này trên đường thực hiện chế độ dân chủ của ông. Khẩu hiệu này được
trích dẫn từ sách Mạnh Tử, một trong Tứ Thư của các nhà Nho ta thời xưa (1),
nguyên văn là "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" có nghĩa là
"Dân là quý, sau đó là xã tắc, vua là nhẹ", được nhà vua chính thức
đưa ra trong Dụ số 1, mở đầu cho một giai đoạn mới trong triều đại của ông. Dụ
này được ban hành ngày 17/3 dương lịch năm 1945, nguyên văn như sau :
Dương Lịch, ngày 17 tháng 3 năm 1945
Nước Nhật muốn hoàn toàn thực hiện
chương trình xây nền thịnh vượng chung ở Đại-Đông-Á đã giải phóng cho nước Nam
ta, và Trẫm tuyên bố Việt Nam độc lập rồi.
Nay Trẫm có trách nhiệm đối với lịch sử
và thần dân, nên tự cầm lấy quyền để bảo vệ lấy quyền lợi cho Tổ-quốc và giáng
dụ rằng :
1. Chế độ chính trị từ nay căn cứ vào
khẩu hiệu "Dân vi quí’.
2. Trong chính giới sẽ chiêu tập các
nhân tài đích đáng để chỉnh đốn lại nền tảng Quốc gia cho xứng đáng là một nước
độc lập chân chính có thể hợp tác với Đại-Nhật-Bản trong công cuộc kiến thiết Đại-Đông-Á.
3. Trẫm sẽ tài định và tuyên bố các cơ
quan chính trị để ban hành những phương pháp hợp với nguyện vọng của Quốc dân.
Nhận định về đạo dụ này, Nguyễn Tường Phượng
trong bài "Một đạo dụ, một chế độ" đăng trên Tri Tân tạp chí số
ra ngày 20/4/1945, trên trang đầu, đã viết như sau :
"Ba điều ban bố trên đáng ghi vào lịch sử xứ
này, thật là trên thuận lòng giời, dưới đẹp lòng dân, quốc dân rất trông mong ở
sự thi hành triệt để khác nào như đói mong ăn và khát mong uống vậy.
Nếu một khi nhà nước dùng được người tài, đức vẹn
hai ra gánh vác, đảm đương những trọng trách, lại thêm vào đấy cái chính sách
thân dân, thể tất đến dân nguyện thời nền tảng quốc gia xứ này có thể phục
hưng. Được như vậy, đạo dụ ngày 17/3 đáng ghi vào trang đầu lịch sử của nước Việt-Nam
độc lập".
Còn Luật sư Bùi Tường Chiểu, trong bài
"Đạo Dụ số 1 của Đức Bảo Đại Hoàng đế" đăng trên Thanh Nghị, số 107,
"Số Đặc san Chính trị", ra ngày 5/5/1945, cũng nhấn mạnh đến tầm quan
trọng đặc biệt của đạo dụ này. Ngay những dòng mở đầu ông viết :
"Đạo dụ trên đối với chế độ chính trị nước ta
sau này có một tính cách quan trọng đặc biệt mà ta có thể nói rằng đạo dụ này
đã nêu lên một cách tóm tắt những quả quyết rõ ràng những nguyên tắc kiến thiết
chính thể nước Việt-Nam sau này".
rồi nhấn mạnh hơn đến ba chữ Dân vi quý, ông phân
tích :
"Nay đạo Dụ số 1 đã nêu lên khẩu hiệu Dân vi
quí có nghĩa là đức Bảo-Đại đã hủy bỏ cái lý thuyết cũ mà đến nay hầu hết các
nước văn minh đã cho là không hợp thời. Đã lấy dân làm trọng, đã lấy quyền lợi
dân để trên tất cả thì vua tất chỉ là một cơ quan tối cao trong nước điều khiển
những cơ quan chính trị khác để phụng vụ quốc gia, tìm những phương pháp hợp với
nguyện vọng của cả quốc dân mà thi hành. Như thế là trong nền chính trị đức Bảo-Đại
Hoàng-Đế đã định đặt quốc dân ta đi vào một con đường mới".
Cuối cùng đi xa hơn nữa, vị luật gia này còn nói tới
hiến pháp. Ông viết :
"Xong chúng ta có thể căn cứ vào điều thứ 3 của
bản Dụ mà nói rằng đức Bảo-Đại sẽ tuyên bố các cơ quan chính trị mới mà trong
câu cơ quan ấy sẽ có một cơ quan có quyền lập pháp. Muốn tổ chức một cách phân
minh các cơ quan hành chính, lập pháp và tư pháp, tất nhiên phải có một đạo hiến-luật
để ấn định rõ ràng những quyền hành của các cơ quan chính trị".
Đúng như vậy, Hoàng đế Bảo Đại sau đó đã từng bước
tiến hành những biện pháp mang tính cách dân chủ để xây dựng một thể chế mới với
sự đóng góp của nhiều người thay vì của một thiểu số quan lại trong triều. Sau
đây là những nét chính của những nỗ lực này.
Đích thân tham khảo ý kiến của các quan lại, các
thân hào, nhân sĩ có uy tín để thành lập một chính phủ mới.
Chính phủ mới
Nhằm thành lập một chính phủ mới, ngay từ chiều ngày
19 tức mười ngày sau khi Nhật đảo chánh Pháp và tám ngày sau khi tuyên bố Việt
Nam độc lập, Bảo Đại đã họp với Phạm Khắc Hòe, lúc này là người thân cận duy nhất
bên cạnh nhà vua, để "bàn việc chiêu tập nhân tài một cách cụ thể".
Phạm Khắc Hòe, sau khi đã trao đổi ý kiến với Tôn Quang Phiệt, Tạ Quang Bửu,
Bùi Bằng Đoàn và Ưng Úy, đã đề nghị lên nhà vua một danh sách 14 nhân vật sau
đây :
- Nhà cách mạng lão thành Huỳnh Thúc Kháng (Huế)
- Giáo sư Tôn Quang Phiệt (Huế)
- Bác sĩ Trần Đình Nam (Đà Nẵng)
- Giáo sư Lê Ấm (Qui Nhơn)
- Bác sĩ Hồ Tá Khanh (Phan Thiết)
- Kỹ sư cầu cống Lưu Văn Lang (Sài Gòn)
- Luật sư Vương Quang Nhường (Sài Gòn)
- Ông Ngô Đình Diệm, nguyên Thượng thư Bộ Lại (Sài
Gòn)
- Giáo sư Thạc sĩ Toán Học Hoàng Xuân Hãn (Hà Nội)
- Luật sư Vũ Văn Hiền (Hà Nội)
- Luật sư Phan Anh (Hà Nội)
- Ông Trịnh Văn Bính, tốt nghiệp Cao học Thương mại
Pháp (Hà Nội)
- Ông Hoàng Trọng Phu, nguyên Tổng đốc Hà Đông
- Ông Trần Văn Thông, nguyên Tổng đốc Nam Định
Sau gần một giờ bàn thảo, 8 người đã được Bảo Đại lựa
chọn. Tám người này gồm có :
- Trần Đình Nam (bác sĩ)
- Hồ Tá Khanh (bác sĩ)
- Lưu Văn Lang (kỹ sư)
- Hoàng Trọng Phu (nguyên tổng đốc Hà Đông)
- Trần Văn Thông (nguyên tổng đốc Nam Định)
- Hoàng Xuân Hãn (giáo sư thạc sĩ toán học)
- Phan Anh (luật sư)
- Vũ Văn Hiền (luật sư) hay Trịnh Văn Bính (tốt nghiệp
Cao học Thương mại Pháp) tùy theo Hoàng Xuân Hãn lựa chọn vì Bảo Đại chỉ quen
Hoàng Xuân Hãn trong số những người ở Pháp về (2).
Điều cần để ý ở đây là tất cả các vị này đều là những
cựu quan lại hay những trí thức hay chuyên viên nổi tiếng đương thời và có gốc
từ cả ba miền Nam, Trung, Bắc, thay vì chỉ có hai miền Trung và Bắc theo đúng
như thẩm quyền của nhà vua ở thời điểm này vì xứ Nam Kỳ chưa được người Nhật
trao trả. Các nhà hoạt động chính trị, kể cả những người được coi là thân
Nhật đều không có tên trong danh sách này. Sự kiện này cho phép người ta nghĩ rằng
quyết định và sự lựa chọn các nhân vật để tham khảo ý kiến kể trên của vua
Bảo Đại và phía người Việt là hoàn toàn do nhà vua quyết định, không có sự can
thiệp của người Nhật vì chỉ có hai người hiện diện là chính nhà vua và Phạm Khắc
Hòe. Không những thế, tinh thần và ý chí thống nhất ba miền đã luôn luôn được
nhà vua tôn trọng. Ngoài ra ta cũng nên để ý tới nhận xét của Luật sư Bùi Tường
Chiểu về ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc tham khảo ý kiến này khi ông viết
trong bài tham luận kể trên.
Cũng nên để ý thêm là những cuộc tiếp xúc kể trên chỉ
là những cuộc tiếp xúc với những nhân vật tên tuổi, có chức vị đương thời. Ngòa
i những người này, Bảo Đại, cũng qua Phạm Khắc Hòe, còn mời gặp thêm nhiều nhân
vật khác nữa trong đó có Tôn Quang Phiệt, Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Hoàng Sử,
Nguyễn Lân… Tất cả, theo hồi ký của Trần Thị Như Mân (bà Đào Duy Anh), đều đã
"có vào" và Tôn Quang Phiệt có được cử "nói lên lời chúc mừng nước
nhà độc lập và hứa nếu cần gì thì chúng tôi sẽ giúp không công cho nhà
vua". Phạm Khắc Hòe không nói tới chuyện có vào này. Nói là giúp không
công cho nhà vua như vậy nhưng sau này trong hồi ký của mình, Tôn Quang Phiệt lại
ghi thêm là "Cũng nói thế thôi, chứ trong bụng thì đã có kế hoạch"
(3). Tuy nhiên dù thế nào đi chăng nữa đây cũng là một bằng chứng cụ thể của
thiện chí dân chủ hóa đất nước của Hoàng đế Bảo Đại.
Cuối cùng
thì học giả Trần Trọng Kim đã được lựa chọn để lập chính
phủ mới và ngày 8/5/1945, chính phủ này đã được chính thức
trình diện.
Bước tiến thứ ba
Đặt nền tảng cho việc xây dựng chế độ mới và sửa soạn
cho những công trình tái dựng đất nước lâu dài (sửa lại chính thể và toàn bộ guồng
máy chính quyền).
Đây là bước tiến quan trọng thứ ba trong tiến
trình xây dựng chế độ dân chủ bằng cách tạo dịp cho người dân mà đại diện là
các nhân sĩ, trí thức và chuyên viên các ngành được tham gia việc nước, đồng thời
thực hiện khẩu hiệu Dân vi quý của Hoàng đế Bảo Đại. Với bước tiến thứ ba này,
vào khoảng từ trung tuần/sáu đến thượng tuần/bảy, vừa nhằm chiêu dụ nhân tài, vừa
nhằm tạo cơ hội cho người dân được góp phần vào việc đặt nền tảng và thiết lập
các cơ chế căn bản cho mọi phạm vi sinh hoạt lâu dài của đất nước, bốn hội đồng
đã được thành lập qua ba đạo dụ và một đạo sắc với đầy đủ nhân sự để ngay
lập tức có thể thực thi. Bốn hội đồng này gồm có :
Hội đồng Dự
thảo Hiến pháp, do Phan Anh, Luật sư, Bộ trưởng Bộ Thanh Niên,
người từ lâu đã nghiên cứu về hiến pháp và các thể chế đương thời
làm Thuyết trình viên gồm có các ông Phan Anh, Hoàng Đạo tức Nguyễn Tường Long,
Vũ Đình Hòe, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Huy Lai, Đặng Thái Mai,
Vương Quang Nhường, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn Sâm, Nhượng Tống, Hồ Hữu Tường,
Nguyễn Văn Thinh và Nguyễn Trác (Dụ số 60 ngày 7/7/1945. Dụ này được đăng trong
Việt Nam Tân Báo số ra ngày 7/7/1945).
Hội đồng cải
cách cai trị, tư pháp và hành chính, do Vũ Văn Hiền,
Luật sư, Bộ trưởng Bộ Tài chánh, tác giả của nhiều bài nghiên cứu liên
hệ, làm Thuyết trình viên, gồm có các ông Vũ Văn Hiền, Trần Văn Ân, Trần Văn
Chương, Phạm Khắc Hòe, Lê Quang Hộ, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoát, Trần
Văn Lý, Trần Đình Nam, Nguyễn Khắc Niêm, Đặng Như Nhơn, Dương Tấn Tài, Nguyễn Hữu
Tảo, Trịnh Đình Thảo và Phan Kế Toại (Dụ số 70 ngày 30/6/1945. Dụ này được đăng
trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày 9/7/1945).
Hội đồng cải
cách giáo dục, do Hoàng Xuân Hãn, Giáo sư, Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và mỹ nghệ làm Thuyết trình viên, gồm có bà Hoàng Thị Nga, các ông Hoàng Xuân
Hãn, Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân, Nguyễn Văn Chi, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Thành
Giung, Ngụy Như Kontum, Bùi Kỷ, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Quang Oánh, Ưng Quả, Nguyễn
Mạnh Tường, Hồ Đắc Thắng, Nguyễn Văn Thích, Hoàng Đạo Thúy và Nguyễn Xiển (Dụ số
71 ngày 30/6/1945. Dụ này được đăng trong Việt Nam Tân Báo số ra ngày
10/7/1945).
Hội đồng
Thanh niên. Hội đồng này gồm có :
Chủ tịch : Hoàng Đạo Thúy, Huynh trưởng Hướng đạo
Phó Chủ tịch : Trần Duy Hưng, Bắc Chi bộ
Phó Chủ tịch : Tạ Quang Bửu, Nam Chi bộ
Cố vấn Bắc Chi bộ : bà Nguyễn Thị Thục Viên, các ông
Nguyễn Xiển, Phạm Thành Vinh, Vũ Văn Cẩn,Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ
Xuân Phương, Trần Văn Quý, Phan Huy Quát, Ngụy Như Kon-tum, Phạm Ngọc Khuê,
Nguyễn Tường Bách.
Cố vấn Nam Chi bộ : bà Nguyễn Đình Chi, các ông Phạm
Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Tôn Quang Phiệt, Kha Vạng Cân, Nguyễn Tư Vinh, Huỳnh
Văn Tiểng, Nguyễn Văn Thích, Nguyễn Kinh Chi và Thái Can (Sắc số 65 ngày
15/6/1945) (4).
Khi đọc danh sách các hội viên được đề nghị tham gia
các hội đồng kể trên để trình lên Hoàng đế Bảo Đại phê duyệt, Phạm Khắc Hòe tỏ
ý thắc mắc là có tên những người ông "chưa từng thấy bao giờ" nên đã
hỏi Trần Trọng Kim và được Trần Trọng Kim cho biết là các danh sách này
"đã được toàn thể Nội các và nhất là các ông bộ trưởng thuyết trình viên đồng
ý cả rồi, tuy chưa hỏi được ý kiến của tất cả những người hữu quan, song chắc họ
vui lòng nhận cả, vì lúc này ai mà chẳng sẵn sàng ra thờ vua giúp nước" và
nói thêm "Vậy ông chịu khó xin Hoàng đế phê chuẩn đi cho kịp thời, đừng
nên hỏi đi hỏi lại nữa".
Kết quả, theo lời Phạm Khắc Hòe, là "chỉ mấy
phút sau, bốn dự thảo của nội các trở thành ba đạo dụ và một đạo sắc chính thức"
(5).Những lời đối thoại này cho ta thấy khả năng, tính cách hữu hiệu và làm việc
chạy theo thời gian của Trần Trọng Kim và nội các của ông dù đó mới chỉ là ban
hành được những đạo dụ hay đạo sắc, những văn kiện có giá trị như những
đạo luật được quốc hội thông qua trong một nước dân chủ hiện đại, để
làm nền tảng pháp lý cho những bước kế tiếp trong tương lai. Nó cũng nói lên
tính cách hữu hìệu của chế độ quân chủ chuyên chế và sự tin tưởng của Hoàng đế
Bảo Đại vào vị thủ tướng và nội các đương thời, vì bình thường những quyết định
liên hệ đến thể chế và những cơ chế tương lai trong một quốc gia dân chủ không
thể nào có thể thực hiện được trong vòng trên dưới hai/tính từ ngày Nội Các Trần
Trọng Kim họp phiên họp đầu tiên, ngày 8/5, đến ngày 10/7, ngày đạo dụ cuối
cùng trong bốn đạo sắc dụ này được đệ trình, rồi được vị nguyên thủ quốc gia
phê chuẩn trong có "mấy phút sau". Một thời gian kỷ lục mà một
quốc gia dân chủ hiện đại khó có thể làm nổi. Cũng nên để ý là các vị
bộ trưởng được Trần Trọng Kim nói đến ở đây là Bộ trưởng Thanh Niên Phan Anh, Bộ
trưởng Tài chánh Vũ Văn Hiền và Bộ trưởng Giáo dục và mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn.
Cả ba, ngòa i bằng cấp chuyên môn, đều là những chuyên viên hàng đầu của Việt
Nam về các vấn đề liên hệ thời đó. Họ là những người từ lâu đã tìm hiểu,
nghiên cứu và viết những những bài tham khảo bàn về những lãnh vực riêng của
mình và là những cây bút nòng cốt của tờ Thanh Nghị, một thứ "think
tank" của chính phủ đương thời. Đây cũng là dịp để các vị này thi thố
tài năng và thực thi hòa i bão mà từ lâu họ đã từng thai nghén và mọi người
mong đợi. Cũng nên nhớ là thành ngữ "thờ vua giúp nước" cho đến thời
điểm này vẫn chưa trở thành lạc hậu. Điều nên để ý là trái với nhận
định của một vài tác giả, tất cả những nỗ lực kể trên, người viết
xin được nhấn mạnh, đều là những thành tích cụ thể của Hoàng đế
Bảo Đại và Nội các Trần Trọng Kim nhằm thiết lập những cơ chế mới với
nhân sự để chỉ còn thực thi là đầy đủ.
Bước tiến thứ tư
"Tuần lễ của các tự do"
Bước tiến thứ tư là ban hành một số những đạo dụ ấn
định những nguyên tắc liên hệ đến các quyền tự do căn bản của người dân. Ba đạo
dụ sau đây đã được báo Thanh Nghị số 117, ra ngày 21/7/1945 (6) ghi nhận
theo thứ tự thời gian gồm có :
1. Dụ số 73, ngày 26/5 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày
5/7 dương lịch năm 1945 về tự do lập nghiệp đoàn.
2. Dụ số 78, ngày 1/6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày
9/7/1945 về tự do lập hội.
3. Dụ số 79, ngày 1/6 năm Bảo Đại thứ 20 tức ngày
9/7/1945 về tự do hội họp.
Cả ba đạo dụ với nội dung phải nói là rất
tiến bộ này đã được ban hành trong một thời gian ngắn là thượng tuần/bảy năm
1945 và báo Thanh Nghị đã gọi tuần lễ này là "Tuần của các tự do".
Về chi tiết,
báo Thanh Nghị tóm tắt như sau :
Tự
do lập hội : Từ nay phàm người công dân Việt Nam ai nấy đều
có quyền lập những hội có mục đích chính trị, văn hóa, tôn giáo hay xã hội,
ngòa i những hội có mục đích kiếm lợi. Chỉ cần mục đích của hội không trái với
pháp luật, luân lý hoặc là có hại đến nền duy nhất và sự toàn vẹn của lãnh thổ
quốc gia. Nhưng cần phải báo trước với nhà chức trách ít nhất là 30 ngày trước
khi hoạt động
Muốn phân biệt các hội do đạo Dụ số 78 với các hội
có mục đích kiếm lợi phải xét xem các hội viên có chia lãi cho nhau hay không ?
Nếu chia lãi thì tất phải theo những luật lệ hiện hành về các hội buôn.
Nhiều người hội họp với nhau nhiều lần cũng lại
không họp thành một hội vì không có điều lệ để hội viên theo. Cho nên trong tờ
khai phải đính theo cả bản điều lệ của hội mình định sáng lập.
Hội có thể tự giải tán (theo điều lệ hay theo ý muốn
toàn thể hội viên) hay bị tòa án giải tán, nếu mục đích trái với pháp luật,
luân lý, hại tới quốc gia, nếu không khai báo cho đúng thể lệ (chưa kể những sự
trừng phạt về tội hình những người có trách nhiệm). Tài sản của hội khi đó sẽ
phân phát theo điều lệ của hội, theo quyết định của đại hội đồng của hội hay
theo lệnh của tòa.
Có hai thứ hội : hội thường và hội được Hội đồng Nội
các công nhận là một hội có ích lợi chung. Hội thường có quyền tố tụng, thu nhập
tiền đóng góp của hội viên, có quyền mua, quyền sở hữu và quản lý nhà hội quán,
quản trị những bất động sản mà Bộ Nội vụ và Tài chính cho phép mua. Còn hội được
chính quyền công nhận là có ích lợi chung thì ngoài những quyền này còn có quyền
được nhận những tặng dữ.
Tự
do hội họp : Người dân được quyền tự do hội họp nhưng Dụ số
72 phân biệt hai thứ hội họp là hội họp trong tư gia có tính cách gia đình hay
lễ nghi và các hội họp ở những nơi công cộng.
Đối với các hội họp trong gia đình hay lễ nghi hay
những hội họp của các hội tư nhóm họp trong tư gia với số người tham dự không
quá 30 người, người triệu tập không cần phải khai báo. Các cuộc hội họp khác
cũng được tự do nhưng phải khai báo với nhà chức trách. Tất cả các cuộc hội họp
ở các nơi công cộng như họp ở ngòa i đượng phố, trong các công viên hay các thị
xã đều phải xin phép trước. Giờ họp không được quá 12 giờ đêm trừ khi có phép
riêng. Ngòa i ra một nhân viên hành chánh hay tư pháp cũng có quyền tới dự.
Tự
do lập nghiệp đoàn : Việc lập nghiệp đoàn cũng được coi như quyền tự
do của nguời dân với những quy luật được ấn định trong Dụ số 73, theo đó, để
tránh không cho những hội kiếm lợi giả danh làm nghiệp đoàn với mục tiêu trốn
thuế, các nghiệp đoàn bị cấm không được chia lời cho các đoàn viên và khi giải
tán thì của cải không được đem chia cho các đoàn viên. Đồng thời để bảo vệ những
người trong nghề, dụ này cấm không cho nghiệp đoàn cưỡng ép những người này phải
gia nhập hay bắt đoàn viên phải ở lại trong nghiệp đoàn vĩnh viễn nhưng ngược lại
cho phép nghiệp đoàn được từ chối không nhận một người làm đoàn viên theo điều
lệ của mình. Mặt khác, nghiệp đoàn có tư cách pháp nhân trong việc bảo vệ các
quyền lợi của mình, có quyền sở hữu các động sản hay bất động sản nếu xin phép,
có quyền liên kết với nhau để thành lập các liên đoàn và về phía chính quyền,
chính quyền có quyền cử nguời kiểm soát việc quản lý tài chánh của nghiệp đoàn
hay liên đoàn. Cuối cùng vì nghiệp đoàn là một tổ chức có thể dùng để tranh đấu
nên người sáng lập bắt buộc phải có quốc tịch Việt Nam và phải ở trong nghề ít
nhất một năm.
Vì ba đạo luật kể trên đã được ban hành trong thượng
tuần/7/1945 nên tác giả của bài báo gợi ý gọi tuần lễ này là "Tuần lễ của
các tự do". Mặt khác nếu người ta theo dõi những cuộc hội họp của người
dân ở cả hai miền Trung và Bắc đã diễn ra liên tiếp từ ngày 10/3, sau ngày Nhật
đảo chánh Pháp, đặc biệt là ở Huế và Hà Nội với hàng vạn người tham dự một cách
tự do, thoải mái, thì sự ban hành các đạo dụ này "đã làm hợp pháp một tình
trạng riêng của các tỉnh ở Bắc Bộ Việt Nam vì từ sau ngày 9/3 các hội, các đoàn
mọc lên như nấm, các cuộc hội họp công khai tự do vô cùng" (7).
Kết luận
Tất cả các công trình lớn lao kể trên đã được đã được
Hoàng đế Bảo Đại, Thủ tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng trong chính phủ
đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn và
trong một thời gian kỷ lục chưa tới ba năm ngắn ngủi kể từ ngày 8/5 khi chính
phủ này được trình diện đến ngày 6/8/1945 khi chính phủ này từ chức và được
Hoàng đế Bảo Đại cho phép, ngắn hơn nữa nếu tính đến ngày 9/7, ngày các Dụ số
78 về tự do lập hội và số 79 về tự do hội họp được nhà vua chấp nhận. Đây là một
phần của một cuộc cải cách rộng lớn hơn bao trùm mọi phạm vi sinh hoạt đương thời,
gọi theo sử gia Na Uy Stein Tonnesson là "từ trên xuống", còn gọi
theo Vũ Ngự Chiêu thì đó là một cuộc cách mạng nhưng cũng từ trên xuống :
"cách mạng từ trên xuống". Cả hai sử gia này đều có lý vì tính cách
nhanh chóng ít ai có thể ngờ của nó. Câu hỏi được đặt ra ở đây là làm sao nó có
thể xảy ra được trong một chế độ quân chủ chuyên chế đã từng tồn tại cả ngàn
năm như vậy ? Có ba sự kiện người ta có thể nghĩ tới để trả lời câu hỏi này. Đó
là ý muốn và sự hiểu biết của người cầm đầu hay đúng hơn vị nguyên thủ quốc
gia, ước vọng và khả năng của những người lãnh nhiệm vụ thực hiện cuộc cải cách
theo ý muốn của vị nguyên thủ quốc gia ấy và cuối cùng là sự đón nhận của dư luận
đương thời. Cả ba sự kiện này, Đế quốc Việt Nam ở thời điểm đương thời đều có đủ.
Từ vua Bảo Đại đến thủ tướng Trần Trọng Kim và các vị bộ trưởng đều là những
người được huấn luyện đầy đủ, có kiến thức và nhất là có thực tâm, tha thiết với
nền độc lập và sự tiến bộ của nước nhà.
Điều đáng tiếc là biến cố 19/8 đã xảy ra, Việt Minh
cộng sản cướp chính quyền và tất cả đều đã bị dẹp bỏ, điển hình là ngày
22/9/1945, chỉ 20 ngày sau khi tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh
"bãi bỏ các nghiệp đoàn trong toàn cõi Việt Nam" (8) và Bộ trưởng
Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký Nghị định ngày 14/9 giải tán Hội khai trí Tiến Đức
trong khi cùng ngày lại ký một nghị định khác "cấp năng lực pháp luật"
(9) cho hội "Văn hóa Cứu quốc Việt Nam" (Việt Minh) (10). Điều
này cho ta thấy chế độ mới rất sợ các nghiệp đoàn, các hiệp hội
và đặc biệt các cuộc biểu tình hay tụ tập đông người, đồng thời
muốn độc quyền hoạt động trong mọi sinh hoạt quốc gia. Cuối cùng thì
sau 75 năm, cho đến tận ngày hôm nay khi bài này được viết, bất chấp hai cuộc
chiến kéo dài cả ba mươi năm, bất chấp mọi sự hy sinh, gian khổ, máu và
nước mắt của hàng triệu người dân, nhân quyền, tự do và dân chủ, từ đó
thống nhất dân tộc, vẫn nguyên vẹn chỉ là niềm mơ ước hầu như còn lâu mới đạt
được của Quốc Dân Việt Nam. Trong khi đó hình ảnh của một xã hội Việt
Nam theo xã hội chủ nghĩa vẫn tuyệt mù tăm tích hay có thì cũng
chẳng có gì đáng lạc qua như các nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản vẫn
từng hứa hẹn, nếu không nói chỉ là bánh vẽ (11).
Ngày ông Táo lên chầu Trời, 17/1/2020
Phạm
Cao Dương
Phạm Cao Dương là cựu Giáo sư đại học, Tiến sĩ Sử học
---------------------------------------
Chú thích :
(1) Đoàn Trung Còn, dịch giả :
- Tứ Thư, Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh
Tử, quyển Bảy, "Chương sau : Tận Tâm", Huế,
Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2000, tr. 263 - Nguyễn Đức Lân (dịch và chú giải),
- Tứ Thư Tập Chú, "Mạnh Tử, Chương XIV, Tận Tâm, Chương Cú Hạ", Hà Nội, Nhà
xuất bản Văn hóa Thông tin, 1999, tr. 1346.
- Nguyễn Hiến Lê, Mạnh Tử, Sài
Gòn, Cảo Thơm, 1975, Nhà xuất bản Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, Los Alamitos,
CA, tr. 58.
– Phan Bội Châu, Khổng học đăng trọn bộ. Houston,
Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, không đề năm, tr. 463.
- Bàn về khẩu hiệu này, Phạm Khắc Hoè, Ngự tiền Tổng
lý Văn phòng của Vua Bảo Đại và là người thân Việt Minh nằm trong Đại Nội bên cạnh
nhà vua cho là do một người nào đó "mớm" cho nhà vua chứ Bảo Đại
không thể có ý tưởng đó được. Nhận xét này nhiều phần không đúng nếu ta để ý tới
căn bản giáo dục mà Bảo Đại nhận được xuyên qua Phụ đạo Lê Nhữ Lâm từ hồi ông mới
6 tuổi rồi sau đó theo ông sang Pháp trong suốt thời gian ông ở Pháp để dạy ông
về đạo làm vua theo truyền thống Việt Nam trong đó có Khổng giáo, tiếp theo là
những gì ông làm trong thời kỳ cải cách trước đó và những gì ông viết trong hồi
ký sau này của ông.
- Xem thêm Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế
đến Chiến khu Việt Bắc, Huế, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1987, tr. 22-23.
(2) Phạm Khắc Hoè, dẫn trên, tr. 25-26.
(3) Tôn Quang Phiệt, "Tôi tham gia Cách mạng
tháng Tám ở Huế", trong Xưa & Nay, Cơ quan Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam, số 410, tháng 8/2012, tr. 6.
- Trần Thị Như Mân, Sống với tình thương, Hồi
ký, Hà Nội, Nhà xuất bản Thanh Niên, 1988, tr. 49.
(4) Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế…, dẫn
trên, tr. 41-43.
(5) như trên, tr. 41.
(6) Thanh Nghị, số 117,
ngày 21/7/1945. Trong mục "Đời sống Đông Dương" qua bài
báo nhan đề "Mấy đạo dụ về tự do", tr. 23-25,
(7) như trên, tr. 25
(8) Việt Nam Dân Quốc Công Báo, số 2,
6/10/1945, "Mục lục Công báo ngày 6/10/1945".
(9) Tư cách pháp nhân.
(10) Việt Nam Dân Quốc Công Báo, dẫn trên.
(11) Độc giả muốn biết thêm chi tiết
có thể tìm đọc tác phẩm Trước khi bão lụt tràn tới
: Bảo Đại – Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam, 9/3/1945 –
30/8/1945, 826 trang của cùng tác giả bài này, do
Amazon in ấn và phát hành, 2017, 2018.
No comments:
Post a Comment