Nguyễn Quang Duy
6-12-2018
Trương Vĩnh Ký, người tạo nền móng cho giáo dục và cải
cách ngôn ngữ Việt Nam vào thế kỷ 19, là nhà bác học nhiều năm qua vẫn chưa được
hậu sinh hiểu một cách tận tường.
Bài viết này muốn nhắc lại nỗ lực giáo dục và cải
cách ngôn ngữ tiếng Việt của ông nhân kỷ niệm 181 năm ngày sinh của ông, vào
ngày 6/12/1837 tại ấp Cái Mơn, tỉnh Vĩnh Long.
Sau 30/4/1975, khi ngôi trường trung học Petrus
Trương vĩnh Ký bị đổi tên và bức tượng bán thân giữa sân trường bị dời đi, học
sinh chúng tôi thường tranh luận về “công và tội” của Petrus Ký khi mượn tay
người Pháp giúp nền văn học nước nhà.
Chúng tôi thường kết thúc bằng ngạn ngữ được Pétrus
Ký dùng nhiều lần khi viết thư “Sic vos non vobis”.
Hồi ấy chúng tôi hiểu câu ngạn ngữ trên là “Ở với họ
mà không theo họ”, vừa tránh dẫn đến chuyện bị quy kết “phản động”, vừa tỏ bày
tâm sự “Ở với cộng sản mà không theo cộng sản”.
Gần đây tôi mới biết câu ngạn ngữ tiếng La Tinh “Sic
vos non vobis” có 2 nghĩa và dịch như trên là hoàn toàn sai ý Pétrus Ký.
Winston Phan Đào Nguyên phổ biến trên trang Nghiên
Cứu Lịch Sử bài “Minh oan cho Pétrus Trương Vĩnh Ký về câu ‘ở với họ
mà không theo họ’ ”, theo tác giả thì Pétrus Ký dùng một nghĩa
khác của ngạn ngữ là “Làm điều lợi cho người khác chứ không cho chính mình.”
Tác giả đã trình bày rất rõ và rất thuyết phục triết
lý sống của Pétrus Ký là mỗi người phải làm tròn vai trò hay số phần trong đời
để làm cho xã hội của mình tốt đẹp hơn.
Cuộc đời của Pétrus Ký đã chứng minh triết lý sống
này đặc biệt là sự cống hiến ông dành cho chữ Quốc ngữ và nền Quốc văn hiện tại.
Hoàn cảnh xã hội…
Pétrus Ký sinh ra cuối triều vua Minh Mạng, khi ấy
nhà vua dầu muốn nhưng thất bại trong việc canh tân đất nước, triều thần chỉ
toàn những nhà Nho biết làm thơ phú chứ không có ai có khả năng trong các lĩnh
vực khoa học kỹ thuật.
Vua Minh Mạng lại thường hành xử thiếu công minh, nhất
là đối với kẻ công thần, nhiều người giỏi đâm ra chán nản, trái lại phe gian nịnh
nẩy nở mỗi ngày một nhiều, quan tham mỗi ngày một tăng.
Các vua nhà Nguyễn còn ra lệnh bế môn tỏa cảng không
giao thương với nước ngoài, cấm đạo Công giáo, dân tình đói khổ, loạn lạc khắp
nơi, để cuối cùng đất nước lọt vào tay Pháp cả trăm năm.
Petrus Ký là người công giáo, Pétrus là tên Thánh,
theo học trường dòng ở Mã Lai về nước đúng lúc thực dân Pháp đem quân sang xâm
chiếm nước ta.
Pháp tấn công Đà Nẵng ngày 1/9/1858 không thành nên
chuyển sang tấn công 3 tỉnh miền Đông Nam Phần. Ngày 18/2/1859 Pháp chiếm thành
Gia định.
Việc cấm đạo Công giáo trở nên gay gắt hơn. Petrus
Ký phải trốn lên Sài Gòn và được Giám mục Dominique Lefèbre giới thiệu làm
thông ngôn cho Pháp, nên từ đó bị kết tội là tay sai cho giặc.
Pétrus Ký, nỗi oan thế kỷ …
Sau 30/4/1975, nhà cầm quyền Hà Nội vẫn giữ độc quyền
đánh giá “công và tội” của Petrus Ký.
Năm 1993, ông Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên Cộng sản
từ hồi 1930, được Ban Khoa học xã hội thành ủy Tp HCM cho phép phát hành quyển
“Trương Vĩnh Ký, Con Người Và Sự Thật” nhưng sách đã bị tịch thu sau khi in mà
không biết lý do.
Đầu tháng 1/2017, cuốn “Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ”
do nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu soạn đã được Cục Xuất bản cho phép lưu hành,
nhưng chỉ ít ngày trước khi phát hành thì một “lệnh miệng” được ban xuống yêu cầu
hủy bỏ buổi ra mắt sách.
Ông Nguyễn Đình Đầu cho trang BBC tiếng Việt biết
ông đã phát hiện một tư liệu nói về sự hợp tác của ông Trương Vĩnh Ký với người
Pháp từ đầu đã không có suôn sẻ như người ta vẫn tưởng:
“Trong những lời đối đáp khi chính quyền Pháp yêu
cầu Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn, có những văn thơ chứng tỏ là Trương Vĩnh Ký
rất bất mãn trong chuyện người Pháp cư xử với người Việt Nam, cho nên ông không
muốn hợp tác“.
Bức thư giả ký tên Petrus Key…
Còn ở hải ngoại từ năm 1996, nhà nghiên cứu sử Vũ Ngự
Chiêu cho phổ biến nhiều bài viết về một lá thư ông Chiêu cho là do chính
Petrus Ký viết, bằng tiếng Pháp, với chữ ký là Petrus Key.
Trong lá thư Petrus Key cầu khẩn quân Pháp đến giải
cứu cho những người An Nam theo đạo Thiên Chúa ở Nam Kỳ.
Mặc dù kết tội Petrus Ký nhưng ông Chiêu chưa bao giờ
cho công bố lá thư gốc bằng tiếng Pháp nên không thuyết phục được nhiều người.
Nhưng nhiều nhà nghiên cứu sử trong nước lại dựa vào
các bài viết không chứng cớ của ông Vũ Ngự Chiêu để tiếp tục kết tội Petrus Ký
là tay sai cho Pháp.
Cũng trên trang Nghiên Cứu Lịch Sử, Winston Phan
Đào Nguyên cho phổ biến một công trình nghiên cứu sử với tựa đề “Petrus Key và
Petrus Ký – Chuyện một lá thư mạo danh Trương Vĩnh Ký vào thế kỷ 19”, gồm 3 bài
viết.
Trong bài thứ nhất ông Nguyên cho biết đã tìm thấy
lá thư ký tên Petrus Key, mà ông Vũ Ngự Chiêu bấy lâu nay giữ kín, tại Văn Khố
Service Historique De La Defense ở Chateau Vincennes, Paris, Pháp.
Ông Nguyên so sánh văn phong, nội dung, hình thức,
chữ viết, chữ ký… để kết luận rằng đây không phải là bức thư của Pétrus Trương
Vĩnh Ký và đã có người mạo danh Petrus Ký viết lá thư này.
Trong bài thứ hai ông Nguyên cho biết kiếm thấy một
lá do chính tay Petrus Trương Vĩnh Ký viết cho các bạn học ở Penang vào ngày
4/2/1859 bằng tiếng Latin khi Petrus Ký đã vào tới Sài Gòn lánh nạn cấm đạo.
Trong lá thư Petrus Ký đã kể về việc ông trốn quan
quân nhà Nguyễn truy lùng và cho biết quan điểm về việc cấm đạo cũng như quan
điểm về cuộc xâm lăng của liên quân Pháp và Tây Ban Nha.
Theo Petrus Ký, sự bắt đạo, tuy rất tàn ác, nhưng lại
là một điều tất yếu phải xảy ra, cũng như một cơn mưa bão trước một sự yên
bình, hay nói cách khác, là một thử thách của Chúa.
Nhưng ông hoàn toàn phản đối sự can thiệp bằng vũ lực
của Pháp. Với ông, cách dùng vũ khí và bạo lực để can thiệp của quân Pháp là một
giải pháp còn tệ hơn là bạo lực bắt đạo của vua quan nhà Nguyễn.
Trong bài thứ 3, Winston Phan Đào Nguyên chứng minh
chính bà Pauline Jaricot người sáng lập ra Hội Truyền Bá Đức Tin đã mạo danh
Pétrus Trương Vĩnh Ký để viết thư lá thư ký tên Petrus Key.
Công trình nghiên cứu của Winston Phan Đào Nguyên bổ
sung cho một cách nhìn khác về việc truyền đạo Công giáo vào Việt Nam và cả việc
thực dân Pháp xâm chiếm Đông Dương.
Công trình nghiên cứu còn cho thấy ngay từ ban đầu
Trương vĩnh Ký đã không có ý định theo Pháp nhưng vì hoàn cảnh không thể tránh
được.
Chữ Quốc ngữ giữ văn hóa nước nhà
Về việc giữ gìn tiếng Việt trong sách giáo khoa sử
An Nam bằng tiếng Pháp xuất bản tại Sài Gòn năm 1875 (Cours d’histoire annamite
à l’usage des écoles de la Basse-Cochinchine, Impr. du Gouvernement, Saigon,
1875) trang 13 Pétrus Trương Vĩnh Ký đã nhận xét (được dịch) như sau:
“Sĩ Nhiếp đã du nhập toàn bộ văn học Trung Hoa, cùng
đạo lý Khổng Tử, ép buộc dân An Nam phải tiếp nhận làm văn hóa của mình, và cấm
dân An Nam dùng thứ chữ viết phiên âm đặc biệt riêng của người An-nam.
Vì biện pháp nghiệt ngã ấy mà người An-nam đã hoàn
toàn mất đi thứ chữ viết riêng của mình”.
Sĩ Nhiếp (137–226) là một người Việt gốc Hán được
triều đình Trung Hoa phong Thái Thú cai trị Quận Giao Chỉ.
Sĩ Nhiếp được sử sách chính thống các triều đại Việt
Nam đánh giá rất cao vì đã dạy cho dân ta chữ Hán, văn hóa, phong tục và văn
minh Trung Hoa.
Vừa là sử gia vừa là nhà ngôn ngữ học Trương Vĩnh Ký
đã đánh giá Sỹ Nhiếp là người hủy diệt chữ viết cổ của người Việt, đồng thời áp
đặt cách cai trị và văn hóa của người Hán giết chết văn hóa cổ của người Việt
Nam.
Điều này cho thấy ông hiểu rất rõ khi phải mượn tay
người Pháp phổ biến chữ Quốc ngữ để cạnh tranh và loại bỏ ảnh hưởng tiếng Hán
và cả tiếng Pháp, để giữ gìn văn hóa, phong tục và ngôn ngữ Việt Nam.
Pétrus Ký tổ báo chí Việt ngữ
Năm 1864, Pétrus Ký được cử là Hiệu trưởng trường
Thông ngôn (Collège des Interprètes) và theo lời đề nghị của ông người Pháp cho
lập tờ Gia Định báo bằng tiếng Việt.
Để phân biệt với tiếng Pháp, tiếng Hán và tiếng Nôm,
Pétrus Ký gọi cách viết tiếng Việt theo kiểu La Tinh là chữ Quốc ngữ còn văn học
thì được gọi là Quốc văn.
Gia Định báo phát hành số đầu tiên ngày 15/4/1865 tại
Sài Gòn dưới hình thức một tờ Công Báo do ông Ernest Potteaux làm chánh tổng
tài (chủ nhiệm hay tổng biên tập) và ông Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút.
Ngày 16/9/1869, thống đốc Nam Kỳ G. Ohier ký quyết định
số 189 giao tờ Gia Định Báo cho ông Trương Vĩnh Ký làm chánh tổng tài và ông Huỳnh
Tịnh Của làm chủ bút.
Gia định báo gồm các văn kiện và quyết định của nhà
cầm quyền bằng tiếng Pháp do Nha nội vụ cung cấp và được ông Trương Vĩnh Ký dịch
ra chữ Quốc ngữ. Và những bài viết tiếng Việt về thời sự, về lịch sử, về luân
lý dân gian giúp truyền bá chữ Quốc ngữ.
Trên Gia Định báo và nhiều tài liệu khác ông lấy bút
hiệu là Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký. Trong số 11 ra ngày 8/4/1870 ông kêu gọi cộng
tác viên như sau:
“Lời cùng các thầy thông ngôn, ký lục, giáo tập…
đặng hay: Nay việc làm Gia Định Báo tại Sài Gòn ở một chỗ nên không có lẽ mà biết
các việc mới lạ các nơi trong sáu tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy
cứ mỗi tuần hay là nửa tháng hãy viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ
mình ở như: ăn trộm, ăn cướp, bệnh hoạn, tai nạn, rủi ro, hùm tha, sấu bắt,
cháy chợ, cháy nhà, mùa màng thể nào, tại sở nghề nào thạnh hơn…“.
Cũng như đoạn văn trên, đa số các bài viết tiếng Việt
trên Gia Định báo đều bằng văn xuôi, ngắn gọn, đơn giản, dễ đọc, dễ hiểu, viết
theo cách nói của người miền Nam, viết một cách đàng hoàng theo lễ giáo Việt Nam.
Ông giữ vai trò chánh tổng tài đến năm 1872 thì giao
lại cho ông Ernest Potteaux không rõ vì lý do gì.
Như vậy, Trương Vĩnh Ký chính là chủ nhiệm báo Việt
ngữ đầu tiên và theo cách ông hướng dẫn làm báo thì ai cũng có thể làm báo,
không khác gì cách làm báo mạng ngày nay.
Năm 1888, Trương Vĩnh Ký cho xuất bản tạp chí Thông
Loại Khóa Trình, như vậy ông cũng là chủ báo tư nhân đầu tiên tại Việt Nam.
Thông Loại Khóa Trình là một tạp chí văn học sưu tập
nhiều văn thơ, câu đối, câu hò, câu hát dân gian, nhằm cổ vũ phong tục cổ truyền,
phổ biến văn hóa dân tộc có cả thơ văn chống Pháp và lịch sử Việt Nam.
Thông Loại Khóa Trình cho thấy tinh thần yêu nước của
Petrus ký với nhiều bài viết về các nhân vật lịch sử có tài chống ngoại xâm của
Việt Nam, như Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt, Mạc Đĩnh Chi, Châu Văn Tiếp, Phan
Thanh Giản…
Thông Loại Khóa Trình còn phổ biến những bài thơ chống
Pháp của Bùi Hữu Nghĩa, những bài vè như vè Khâm sai và cả hịch chống Pháp của
Nguyễn Tri Phương.
Cộng tác với Thông Loại Khóa Trình có các ông Huỳnh
Tịnh Của, Trương Minh Ký, Trần Chánh Chiếu, Lương Khắc Ninh, và nhiều người yêu
nước khác.
Những người đọc báo biết chữ quốc ngữ khi ấy đều là
công chức Pháp hay học sinh trường Pháp nên nhà cầm quyền Pháp tìm cách tẩy
chay, báo không bán được.
Thiếu vốn, Thông Loại Khóa Trình chỉ ra được 18 số đến
tháng 10/1889 thì đóng cửa. Trong số báo này Trương Vĩnh Ký cho biết: “Nay
vì bởi không có vốn cho đủ in luôn Thông Loại Khóa Trình nữa nên ta cực chẳng
đã, phải đình in”.
Petrus Trương vĩnh Ký ông Tổ báo chí Việt Nam qua đời
1/9/1889 trong nghèo khó và nợ nần.
Tạo nền tảng Quốc văn và giáo dục…
Ngay từ năm 1866 Trương Vĩnh Ký đã cho in ấn phẩm
văn xuôi đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ là cuốn Chuyện Đời Xưa.
Từ đó ông không ngừng viết và để lại một di sản văn
học với ít nhất 119 tác phẩm cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp.
Các tác phẩm đều là những công trình soạn thảo một
cách cẩn thận và khoa học nhưng dễ hiểu, dễ quảng bá, bao trùm mọi thể loại từ
ngôn ngữ, tự điển, sách giáo khoa lịch sử, địa lý, pháp luật, dân tộc học, kinh
tế, chính trị, sinh học và văn học.
Kho tàng văn học này là căn bản định hình cho một nền
Quốc văn với chủ trương gìn giữ đạo lý văn hóa dân tộc nhưng học hỏi văn minh
Tây Phương để cải cách đất nước, mở mang dân trí giúp nước nhà độc lập và giàu
mạnh.
Để truyền bá chữ Quốc ngữ và tư tưởng canh tân,
Trương Vĩnh Ký còn chọn việc dạy tiếng Việt và đào tạo hằng ngàn thanh niên
theo tân học tạo nền tảng cho Phong trào Duy Tân và Đông Du sau này.
Ảnh hưởng triết lý và tư tưởng của Trương Vĩnh Ký đến
nền văn hóa và giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là lấy nhân bản, dân tộc và khai
phóng làm căn bản.
Nỗ lực ‘thoát Hán’ của các vua nhà Nguyễn…
Trong chuyến đi sứ sang Pháp cùng Phan Thanh Giản
năm 1863, Petrus Ký gặp và làm quen với nhà bác học Paul Bert.
Ông Paul Bert là giáo sư khoa học đại học Bordeaux
và Paris, ông tham gia cách Mạng Pháp năm 1870 và trở thành Tổng trưởng Giáo dục
và Nghị sĩ Quốc hội Pháp.
Tháng 2/1886, ông được bổ nhiệm Thống sứ triều đình
Huế. Ông chủ trương tiến bộ và muốn thực hiện cải cách nên đã đích thân thăm và
mời Trương vĩnh Ký ra Huế giúp vua Đồng Khánh.
Nhà vua phong Petrus Ký chức Hàn lâm viện thị giảng
học sĩ và dạy cho vua Đồng Khánh tiếng Pháp.
Năm 1887, Petrus Ký có dâng vua Đồng Khánh 24 điều để
đối phó với Pháp. Trong đó ông có đề cập việc cải cách giáo dục, bỏ dạy chữ
Hán, dạy chữ Quốc ngữ và học hỏi văn minh Tây phương.
Đến cuối thời vua Thành Thái các đề nghị của Petrus
Ký mới được nhà vua ban sắc lệnh cho thi hành.
Chính sắc lệnh này đã dẫn tới phong trào Duy Tân,
dùng chữ quốc ngữ để thoát Hán được trình bày khá rõ trong bài viết trước “Quốc
ngữ và nỗ lực ‘thoát Hán’ của các vua nhà Nguyễn”.
Nhà giáo dục Trương Vĩnh Ký với triết lý sống chẳng
vì mình nên không cần chúng ta phải “minh oan”.
Ngược lại chúng ta cần tìm ra sự thật, cần hiểu biết
sự thật và cần phổ biến sự thật để qua đó chúng ta có thể ghi nhận ân đức cũng
như học hỏi từ Trương Vĩnh Ký và những bậc tiền bối những người đã có công đóng
góp cho nền văn học nước nhà.
Đồng thời chúng ta cần tiếp tục giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt, văn hóa và phong tục để truyền lại cho con cháu chúng ta.
Nguyễn
Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
6/12/2018
Winston Phan Đào Nguyên, 2017, Minh oan cho
Pétrus Trương Vĩnh Ký về câu ‘ở với họ mà không theo họ’ , Nghiên Cứu
Lịch Sử.
Winston Phan Đào Nguyên, 2018, “Petrus Key và
Petrus Ký - Chuyện một lá thư mạo danh Trương Vĩnh Ký vào thế kỷ 19”, gồm 3
bài viết trên Nghiên Cứu Lịch Sử.
Nguyễn Quang Duy, 2018, Quốc ngữ và nỗ lực 'thoát
Hán' của các vua nhà Nguyễn, BBC tiếng Việt.
--------------------------------
Nguyễn Quang Duy
Gửi
tới Diễn đàn BBC từ Melbourne, Úc
4 tháng 9 2018
Trên
Diễn đàn BBC nhà báo Nguyễn Giang đưa ra một cách nhìn khá mới lạ để ghi công
và đánh giá những nhân vật lịch sử đã đóng góp cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ.
Tranh trên trang Le Petit Journal vẽ Vua Thành Thái (mặc hoàng bào) và
Toàn quyền Paul Doumer duyệt binh ở Hà Nội năm 1902. Getty Images
"Các vị truyền giáo có công tạo ra bộ mẫu chữ,
nhưng việc này không có gì quá độc đáo hay quá khó khăn và giả sử nếu không có
họ thì việc đó cũng có thể làm được sau này."
Ý kiến cũng nói rằng Trung Hoa, Thái Lan, Ấn Độ, Ả Rập,
Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều quốc gia khác đều đã có những văn tự bằng tiếng La Tinh
nhưng chưa bao giờ trở thành chữ quốc ngữ của họ.
Cũng theo nhà báo Nguyễn Giang, Đông Kinh Nghĩa Thục
chỉ xóa hàng rào cản tâm lý quá lạc hậu để giới sỹ phu yên tâm dùng chữ Quốc
ngữ.
Và rằng chính nỗ lực tiên phong quảng bá quốc ngữ là
của trí thức miền Nam và nhờ chính sách tiến bộ, khoa học của chính quyền Pháp
tại Đông Dương tạo đà cho chữ Quốc ngữ lan tỏa.
Nhưng tôi nghĩ cũng lạ tại sao ba nước Việt, Miên và
Lào có chung hoàn cảnh, đều là thuộc địa của Pháp mà Miên và Lào lại không sử dụng
La Tinh làm chữ quốc ngữ.
Ở đây cần xem cả đến công lao các vị vua cuối cùng của
triều Nguyễn, dù họ không thực sự nắm quyền thời Pháp thuộc.
Sắc lệnh của Vua Thành Thái
Theo sử gia Liam Kelley (2016) vào đầu thế kỷ XX cả
người Pháp lẫn những nhà cách mạng đều không đủ quyền lực để chữ Quốc ngữ có thể
lan ra sâu rộng xuống đến tận làng quê.
Qua nghiên cứu những nguồn tài liệu trong giai đoạn
này, sử gia Liam Kelley kết luận chính nhà Nguyễn mới đi đầu trong công cuộc cải
cách giáo dục.
Trong bài "Emperor Thành Thái's Educational
Revolution", Liam Kelley (2016) đã công bố sắc lệnh của vua Thành Thái
được lưu trữ trong Đại Nam Hội Điển Sử Lệ Tục Biên.
Bài viết được Nguyễn Hồng Phúc lược dịch có đoạn như
sau:
"Hoàng đế Thành Thái đã tuyên bố trong một sắc
lệnh rằng vào năm trị vì thứ 18 của ông (năm 1906), cha mẹ có thể quyết định việc
cho con theo học một trường ấu học Hán văn hoặc một chương trình giảng dạy Nam
âm (Quốc ngữ).
Với những người học theo chương trình Hán văn, sẽ có
một cuốn sách giáo khoa được soạn ra nhằm giới thiệu những từ chữ Hán theo cấp
độ khó dần. Nó cũng bao gồm một danh mục các Hán tự kèm theo phiên âm và định
nghĩa bằng quốc ngữ được dùng trong tài liệu.
…Trong khi, một cuốn sách giáo khoa bằng quốc ngữ
khác sẽ được soạn ra để dạy những người theo chương trình học 'Nam âm' nhằm giới
thiệu cho họ những thông tin cơ bản về xứ Đông Dương, thiết chế cai trị của nó,
những phong tục tập quán...
Thêm vào đó, cũng có thêm một cuốn sách nữa được dịch
từ Hán văn sang Nam âm nhằm cung cấp những loại thông tin mà học viên đang luyện
thi khoa cử cần biết. Bản dịch này được soạn ra cho những người không muốn thi
khoa cử, nhưng nó vẫn được đưa vào chương trình để cho họ biết thêm về những gì
mà những người đang luyện thi khoa cử phải học…"
Tranh vẽ trường thi Hán học ở Bắc Kỳ - hình của Chris Hellier/Corbis.
GETTY IMAGES
Sắc lệnh này vô cùng quan trọng vì khi nhà vua ra lệnh
sử dụng chữ Quốc ngữ là nhà vua đã công khai ý định muốn thấy tầng lớp quan lại
và sỹ phu phải thoát khỏi ảnh hưởng Trung Hoa trong giáo dục, văn hóa, và nhất
là tư tưởng.
Vừa thoát Trung vừa chống Pháp
Xin nhắc lại về cuộc đời vị vua trẻ tuổi.
Sinh năm 1879, vua Thành Thái lên ngôi năm 1889, khi
mới 10 tuổi, và đến năm 1907 bị Pháp ép thoái vị.
Ngài bị quản thúc ở Vũng Tàu rồi đến năm 1916 bị đày
sang đảo Réunion.
Vua là người cầu tiến, học tiếng Pháp, có hiểu biết
khá toàn diện, cắt tóc ngắn, mặc Âu phục, phong cách của người theo tân học.
Vua thường xuyên tiếp xúc với sỹ phu và dân chúng, đồng
thời trọng dụng nhiều nhân tài, thanh liêm, đức độ với hy vọng khôi phục và
canh tân đất nước.
Sắc lệnh cho dạy Quốc ngữ chính là văn bản ủng hộ
Phong Trào Duy Tân (1906) và Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) thúc đẩy việc theo tân
học và dùng chữ quốc ngữ.
Cắt tóc ngắn trở thành một dấu hiệu của người theo
tân học.
Nhiều thanh niên lúc ấy sắm cho mình một cái kéo, đi
tuyên truyền, vận động cắt tóc và vận động canh tân.
Đến khi Vua bị người Pháp ép thoái vị năm 1907 hình ảnh
một vị vua yêu nước, chống Pháp, cắt tóc ngắn nhanh chóng lan tỏa xuống đến tầng
lớp nông dân.
Tháng 3 năm 1908, bắt đầu từ tỉnh Quảng Nam, nông
dân đầu cắt tóc ngắn lũ lượt kéo đến các phủ huyện đòi giảm sưu giảm thuế.
Tất cả đều hớt tóc ngắn đi thành đoàn, phong trào mở
rộng vào Nam đến Bình Định, Phú Yên và ra Bắc đến Nghệ An, Hà Tĩnh.
Pháp và triều Nguyễn gọi cuộc biến động này là Giặc
cắt tóc, ở Bình Định gọi là Giặc đồng bào, sau được đổi lại là cuộc Dân biến
Trung kỳ.
Đây là cuộc đấu tranh bất bạo động đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam và đoàn biểu tình lấy biểu tượng là Vua Thành Thái một vị vua yêu
nước, theo tân học nhưng chống Pháp.
Như vậy ngay từ đầu thế kỷ thứ 20, người Việt đã công
khai thực hành phương pháp đấu tranh bất bạo động với biểu tượng vua Thành
Thái, có tổ chức, có chiến thuật, có mục tiêu và có chiến lược một cách rất rõ
ràng.
Cuộc đấu tranh bất bạo động bị Pháp đàn áp dã man.
Nhiều người tổ chức và tham dự bị bắt, phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục
bị dập tắt.
Hoàng đế thứ 12 của triều Nguyễn, Khải Định trong cuốn 'The Peoples of
All Nations, Their Life Today and the Story of Their Past, tập I' do JA
Hammerton biên soạn và xuất bản ở London năm 1922
Các vị vua tiếp tục cải cách
Năm 1907 vua Duy Tân tiếp nối việc cải cách giáo dục
bằng cách cho thành lập Bộ Học nhằm cai quản việc học hành và thi cử.
Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục là một nhà giáo dục cổ
vũ thực học, thực tài, bỏ đi kiểu học từ chương, xa rời thực tế và chủ trương
phát triển nền giáo dục "không học vì bằng cấp" mà phải học lấy thực
tài để ra giúp dân, giúp nước.
Đáng tiếc ông lại hết sức bài bác chữ Quốc ngữ,
nhưng không phải vì thế mà chữ Quốc ngữ bị đưa ra khỏi nền giáo dục.
Theo Trần Gia Phụng từ năm 1909, chương trình thi
Hương bắt buộc thí sinh phải làm các đề thi luận văn bằng cả chữ Hán lẫn chữ Quốc
ngữ.
Ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày
28/12/1918) vua Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử kiểu Hán học.
Năm 1919 là năm cuối mở khoa thi Hương ở Huế, từ đó
chữ Quốc ngữ thành chữ viết chính thức của người Việt Nam.
Vai trò của các ông giáo trường làng
Bên cạnh các trường công do triều đình và người Pháp
lập ra là một hệ thống trường tư do các thầy đồ sau chuyển thành thầy giáo làng
giảng dạy.
Mỗi làng có khi lên đến vài ba trường, hoặc dạy ở
nhà thầy, hoặc ở nhà người giàu có nuôi thầy cho con ăn học và cho con các nhà
lân cận trong làng theo học.
Thầy đồ đa số là những người có học, có người đỗ tú
tài, có người là quan hồi hưu mở lớp dạy học.
Thầy đồ hoàn toàn tự do không chịu sự giám sát của
triều đình.
Mặc dầu được tự do mở lớp giảng dạy giới thầy đồ vẫn
giữ lòng trung với các vua nhà Nguyễn và với sách Thánh hiền.
Các thầy đồ quyết liệt chống lại các chính sách giáo
dục của nhà cầm quyền Pháp với quan niệm chữ Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại
bang và là công cụ của các nhà truyền giáo.
Với họ, chữ Hán giáo dục về luân lí, về lịch sử, là
chữ Thánh hiền còn Quốc ngữ chỉ để đọc báo, đọc Kinh Thánh, những sản phẩm của
quân xâm lược, biết đọc chẳng ích lợi gì.
Nhưng khi sắc lệnh cho dạy Quốc ngữ của vua Thành Thái
được ban ra thì chính các thầy đồ đã thay đổi đã tự học chữ Quốc ngữ để truyền
dạy lại cho học sinh.
Ba lớp Đồng ấu học trước khi học sinh vào tiểu học đều
do các thầy giáo trường làng dạy hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ.
Nhờ thế chữ Quốc ngữ trở thành phổ thông đại chúng.
Triều đình Huế đã có nhiều nỗ lực tự cải cách để hiện đại hóa quốc gia
dù không có quyền lực chính trị. GETTY
IMAGES
Những bộ sách giáo khoa như Sử ký địa dư giáo khoa
thư, Luân lý giáo khoa thư, Quốc văn giáo khoa thư, được học giả Trần Trọng Kim
và các cộng sự biên soạn để dạy lớp ấu học trường làng.
Bộ sách giáo khoa 'Việt Nam Sử lược' được học giả Trần
Trọng Kim soạn để dạy các lớp cao hơn và đã hoàn toàn chỉ cho những người đã biết
Quốc ngữ.
Lên lớp nhì và lớp nhất ở trường chính phủ, mỗi tuần
chỉ dạy chữ quốc ngữ một giờ rưỡi và bậc trung học chỉ dạy ba giờ.
Thời gian còn lại học sinh được dạy bằng tiếng Pháp
và hầu hết do người Pháp dạy.
Từ đó ta thấy căn bản tiếng Việt, sử địa, luân lý,
văn hóa về Việt Nam của học sinh hầu như đều thu nhận được từ các thầy giáo trường
làng.
Hoàng tử Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy khi học ở Pháp. Sau ông lên ngôi lấy hiệu
là Bảo Đại và là Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn. Bettmann/Getty Images
Vua Bảo Đại là người Tây Học
Tốt nghiệp trường Khoa học Chính trị Paris về nước,
vua Bảo Đại bắt tay ngay vào việc cải cách đất nước, mong từng bước khôi phục lại
chủ quyền quốc gia.
Ngày 10/12 năm 1932, vua Bảo Đại cho công bố đạo dụ
nước ta theo chế độ Quân chủ Lập hiến, nhà vua sẽ trực tiếp điều khiển nội các
và cho cải cách hành chính, giáo dục và tư pháp.
Một nội các mới đã được thành lập gồm những người trẻ
theo tân học như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Đệ…
Bộ Học được đổi tên thành Bộ Giáo dục và giao cho Phạm
Quỳnh từng là chủ nhiệm báo Nam Phong một người luôn tha thiết với chữ Quốc ngữ
điều hành.
Các cuộc cải cách của vua Bảo Đại đều bị người Pháp
cản trở, riêng cải cách về giáo dục nhờ Phạm Quỳnh được người Pháp tin nên ít bị
cản trở.
Chữ Quốc ngữ được tăng giờ dạy ở các trường công.
Nhờ thế sau khi Nhật đảo chánh Pháp, trao trả độc lập
cho Việt Nam, chỉ trong vòng 5 tháng chính phủ Trần Trọng Kim đã thực hiện
thành công cuộc cải cách lấy chữ Quốc ngữ làm ngôn ngữ chính trong giáo dục.
Bộ trưởng Giáo dục Hoàng Xuân Hãn có công lao lớn
khi soạn cả sách toán và kỹ thuật bằng tiếng Việt Quốc ngữ để dạy ngay trong
niên học 1945-46 tại miền Bắc và miền Trung.
Từ 1948 đến 1955, chính phủ Quốc gia Việt Nam tiếp
tục lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy đến hết bậc trung học.
Bắt đầu từ chuyển biến tư tưởng thời
Thành Thái
Học tiếng Pháp, theo tân học thoát khỏi tư tưởng
Trung Hoa nên vua Thành Thái đã hiểu rõ những khái niệm về tự do, dân chủ, quốc
gia, dân tộc, quân chủ, cộng hòa… hiểu từ sách Pháp không phải từ sách Trung
Hoa.
Thay đổi quan trọng nhất của nhà vua là về mặt tư tưởng,
về ý thức đất nước không còn của nhà vua nữa mà là của quốc gia của dân tộc.
Quốc gia là một thực thể độc lập có chủ quyền thoát
khỏi tư tưởng thuộc địa hay chư hầu Trung Hoa.
Khái niệm 'quốc gia' bắt đầu được sử dụng đối nghịch
với 'thuộc địa', 'chư hầu'.
Mặc dù không có quyền lực trong tay các vua triều
Nguyễn đã thực hiện thành công cải cách từ giáo dục, văn hóa, đến chính trị đưa
đất nước thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa.
Bài học các vua triều Nguyễn đã thực hiện là nếu muốn
cải cách giáo dục phải bắt đầu bằng thay đổi tư tưởng cho chính mình.
Vì thế, theo tôi, nhu cầu thiết yếu của đất nước
ngày nay không phải là cải cách tủn mủn về phát âm, ký tự Quốc ngữ mà phải vừa
thoát khỏi một ý thức hệ duy nhất, vừa thoát Trung để khôi phục các nền tảng
cơ bản cho Việt Nam.
---------------
Bài
viết thể hiện quan điểm riêng của ông Nguyễn Quang Duy, Melbourne, Australia.
Quý vị có bài phản biện, ý kiến đa chiều về chủ đề này hoặc các vấn đề lịch sử
Việt Nam, xin gửi về vietnamese@bbc.co.uk
No comments:
Post a Comment