Hồng
Thuỷ -
GDVN
10:43 19/03/18
(GDVN)
- Trung Quốc có cả một đội ngũ nghiên cứu, theo dõi nhất cử nhất động của Việt
Nam trên Biển Đông và trong quan hệ với các nước khác.
Tiếp
theo bài viết ""Lịch sử" nào tác động tiêu cực đến quan hệ Việt -
Trung?", chúng tôi xin giới thiệu đến quý bạn đọc vấn đề tiếp
theo được tác giả Bổ Nhất Đao và một số học giả Trung Quốc đặt ra trong bài báo
đăng trên Thời báo Hoàn Cầu ngày 14/3/2018, tròn 30 năm ngày thảm sát Gạc Ma.
Trong
phần này, các tác giả Trung Quốc bình luận về chính sách của Việt Nam trên Biển
Đông, để làm cơ sở đề xuất một số giải pháp với giới hoạch định chính sách
Trung Nam Hải mà chúng tôi sẽ trình bày trong bài viết tới.
Vẫn
với bố cục 2 phần để đảm bảo tính khách quan, minh bạch của thông tin, xin mời
quý bạn đọc theo dõi phần quan điểm, lập luận của một số học giả Trung Quốc
trong phần in nghiêng, chú thích và bình luận của người viết in thẳng.
Tiêu
đề phụ của bài viết do chúng tôi đặt để làm nổi bật thông điệp của mỗi bên.
Đối
ngoại chiếu trên
“3.
Giáo sư Hứa Kỷ Lâm từ Đại học Sư phạm Hoa Đông từng nói, cái thế ngoại giao của
Trung Quốc về mặt tập quán có thể phân thành thượng quốc và hạ quốc.
Giáo
sư Hứa Kỷ Lâm, Đại học Sư phạm Hoa Đông. Ảnh: Caixin.
Với
các thượng quốc như Hoa Kỳ, (Trung Quốc) thường quan sát tỉ mỉ
chân tơ kẽ tóc, việc nhỏ đến đâu cũng xem là việc lớn.
Còn
với các "hạ quốc" như Việt Nam thì dù có sát nách ta, cũng chẳng đáng
xem, cho nên thiếu những hiểu biết tối thiểu về họ.
Những
nước nhỏ như thế có lúc còn khó đối phó hơn là nước lớn.
Muốn
bảo vệ chủ quyền quốc gia, đầu tiên phải tìm hiểu quốc gia láng giềng bất khuất,
đồng chủng đồng văn với chúng ta.
Lời
của Giáo sư Hứa Kỷ Lâm tuy có hơi nặng, nhưng cho thấy rất rõ vấn đề. Ví như Việt
Nam trong giai đoạn trước đây, họ đã âm thầm làm tốt được mấy việc ngay trước mắt
chúng ta.”
7
điểm "tổng kết" của tác giả Bổ Nhất Đao về chính sách của Việt Nam
trên Biển Đông qua lăng kính học giả Trung Quốc
“Thứ
nhất là thúc đẩy việc xây dựng đảo, đá.
Đến
cuối năm ngoái Bloomberg tiết lộ, Việt Nam đã tăng cường xây dựng được khá nhiều
công trình trên Đá Tây thuộc quần đảo Trường Sa.
Thực
ra chẳng riêng gì Đá Tây, theo thống kê của tổ chức Sáng kiên Minh bạch hàng hải
châu Á, từ 2014 đến nay, Việt Nam đã bồi đắp được 0,49 km vuông trên 10 đảo nhỏ
ở Biển Đông.
Ảnh
chụp đá Chữ Thập, Trường Sa tháng 12/2017. Từ một bãi san hô chỉ có một số mỏm
đá nhô lên mặt nước khi thủy triều lên, Trung Quốc đã bồi lấp thành một đảo
nhân tạo rộng 2,74 km vuông với chi phí 11,5 tỉ USD. Ảnh: duoweinews.com.
Do
nguyên nhân nguồn lực tài chính và kỹ thuật (còn thiếu thốn, khó
khăn), nên hầu hết các công trình xây dựng Việt Nam tiến hành trên các đảo,
bãi đá đều dùng sức người khuân vác.
Nói
như truyền thông quốc tế, quy mô các công trình xây dựng của Việt Nam "rất
nhỏ", cho nên họ hầu hết đều có thái độ phê phán Trung Quốc và đồng tình với
Việt Nam trong việc xây dựng đảo.
Tuy
nhiên chúng ta không thể xem thường Việt Nam, cách thức xây dựng theo kiểu
"kiến tha lâu có ngày đầy tổ" diễn ra suốt mấy chục năm, nên khả năng
kiểm soát của Việt Nam với các đảo, đá ngày càng mạnh.
Ngoài
ra, Việt Nam cũng áp dụng một loạt thủ đoạn chiếm lĩnh và củng cố. Trên 29 điểm
đảo, đá ở Trường Sa, Việt Nam có 2 đội quân.
Một
đội quân chính quy, phân bố từ vài chục người đến cả trăm người trên các đảo,
đá tùy quy mô lớn nhỏ của các cấu trúc địa lý.
Đội
quân thứ hai mang phiên hiệu đặc thù, 386199, chủ yếu là phụ nữ, trẻ em và người
gia hình thành một tổ chức dân sự.
Đây
là chiến thuật quân đội chiếm lĩnh đến đâu cho dân theo sinh sống đến đó.
Hơn
nữa nhiều tỉnh thành của Việt Nam đều "kết nghĩa" với 1 hoặc một vài
đảo, đá để cung cấp trợ giúp cho quân dân trên đảo, từ chi phí sinh hoạt, điện
thoại cho đến thăm hỏi...để duy trì tính ổn định của dân số trên đảo.
Một
tàu cá được cho là tàu cá Việt Nam đánh bắt ở Trường Sa, phóng viên Trung Quốc
Lưu Phong chụp, được Thời báo Hoàn Cầu sử dụng minh họa cho bài viết về thảm
sát Gạc Ma ngày 14/3/2018.
Xem
ra Việt Nam đường như đã chuẩn bị cho chiến tranh nhân dân trên Biển Đông.
Thứ
hai là (Việt Nam) tăng cường khống chế các vùng biển tranh chấp.
Tháng
Sáu năm ngoái, các hoạt động của Việt Nam tại bãi Tư Chính đã gây phiền phức
cho quan hệ Việt - Trung, đây là một hành động có ảnh hưởng tương đối lớn của
Việt Nam trên Biển Đông.
Những
năm gần đây, Việt Nam liên tục lấy lý do quản lý hoặc khai thác vùng đặc quyền
kinh tế và ngư trường truyền thống để đưa các tàu cá, tàu khảo sát, tàu du lịch
và thúc đẩy hoạt động khai thác tài nguyên ra phía trước, với các tàu Cảnh sát
biển, Kiểm ngư hộ tống phía sau, tiến ra khu vực Hoàng Sa, Trường Sa.
Việt
Nam tuyên truyền nhất quán rằng, mỗi một tàu cá đều là một bia chủ quyền di động.
Trước
đây, tàu cá của Việt Nam tương đối nhỏ, động cơ yếu, trang bị kém nên không có
năng lực đánh bắt tầm xa.
Chính
phủ Việt Nam đã ra các chính sách cổ vũ, hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho ngư
dân, nâng cao đáng kể năng lực đánh bắt xa bờ cho ngư dân.
Hơn
nữa, Việt Nam còn có ý nâng cao năng lực phi xung đột vũ trang, với các tàu được
chế tạo mới họ đặc biệt quan tâm đến khả năng (đối phó với việc bị
tàu Trung Quốc có mũi thép nhọn) đâm húc, năng lực đối kháng, ngoài ra
còn trang bị pháo cho các tàu Cảnh sát biển.
Thứ
ba là tăng cường ý thức chủ quyền quốc gia cho dân chúng.
Việt
Nam thông qua một loạt động thái từ lập pháp đến thực thi chủ quyền nhằm tăng
cường cái gọi là chủ quyền của họ với các đảo, đá họ chiếm đóng.
Những
việc này được họ triển khai một cách vững chắc từng bước, kiên trì lâu dài.
Năm
2007 Việt Nam thông qua Chiến lược biển đến năm 2020, nâng chiến lược biển lên
tầm quyết sách, ý chí quốc gia của Đảng, Nhà nước, tạo nền tảng cho các chính
sách về hoạt động trên biển và giải quyết các vấn đề trên biển.
Năm
2009 Việt Nam thông qua Luật Dân quân tự vệ, luật quy định dân quân biển có nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
Năm
2012 Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam.
Năm
2015 Việt Nam thông qua Luật Trưng cầu dân ý để đặt nền móng cho sau này có thể
mượn cớ ý dân, gây áp lực với Trung Quốc trên Biển Đông.
Năm
2016 Đại hội 12 Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh việc bảo vệ chủ quyền
của Việt Nam với các đảo, đá và quyền lợi biển.
Đồng
thời Việt Nam còn thông qua giáo dục, triển lãm, tuyên truyền...để tăng cường ý
thức chủ quyền cho dân chúng;
Thông
qua hoạt động du lịch, quyên tặng, tổ chức đoàn thăm hỏi, phỏng vấn nghiên cứu
ra các đảo, Việt Nam đã nâng cao sự tham dự của các giới trong xã hội vào vấn đề
Biển Đông, duy trì mức độ quan tâm của dân chúng đến Biển Đông.
Trên
báo VietNamNet Bridge, có chuyên gia Việt Nam còn kiến nghị phải đưa vụ thảm
sát Gạc Ma vào trong sách giáo khoa lịch sử để các thế hệ mai sau luôn ghi nhớ,
đừng quên.
Thứ
tư là tạo dựng thanh thế quốc tế.
Quốc
tế hóa là một thủ đoạn quan trọng của Việt Nam trong chiến lược Biển Đông và họ
đã làm rất thành công.
Việt
Nam có ý tạo dư luận quốc tế để tăng thêm tính phức tạp của vấn đề Biển Đông,
dùng dư luận quốc tế để kiềm chế Trung Quốc.
Lãnh
đạo Đà Nẵng tiếp chỉ huy Hạm đội 7 và tàu sân bay USS Carl Vinson thăm Việt
Nam, sự kiện này nằm trong tâm điểm theo dõi của một nhóm nhà nghiên cứu Trung
Quốc. Ảnh trên Thời báo Hoàn Cầu.
Các
nhà lãnh đạo Việt Nam tận dụng mọi cơ hội và địa điểm thích hợp để kêu gọi tôn
trọng luật pháp quốc tế, tự do hàng hải.
Giới
học thuật, ngoại giao Việt Nam cũng làm cho nổi đình nổi đám. Bắt đầu từ 2010,
Việt Nam dẫn đầu trong việc tổ chức các hội thảo quốc tế về tranh chấp trên Biển
Đông.
Thậm
chí tại các hội nghị không liên quan gì đến Biển Đông, Việt Nam cũng tổ chức
các triển lãm về cái gọi là "chủ quyền lịch sử" của mình trên Biển
Đông.
Trên
lĩnh vực khai thác dầu khí, Việt Nam đã đặc biệt mời gọi các doanh nghiệp nước
ngoài vào cùng khai thác.
Nói
thật, trên phương diện chiếm quyền thượng phong ngôn luận, quyền phát ngôn
trong dư luận quốc tế, Việt Nam đã làm tốt hơn chúng ta.
Tờ
Sankei Shimbun của Nhật Bản từng đăng bài "Nhật Bản nên lấy mô hình ngoại
giao của Việt Nam làm kiểu mẫu" của trưởng văn phòng đại diện báo này tại
Trung Quốc.
Bài
viết cho rằng, Việt Nam hoàn toàn không thua Trung Quốc ở tầm cao ngoại giao và
trí tuệ, Nhật Bản nên lấy Việt Nam làm hình mẫu, điều này cho thấy rất rõ vấn đề.
Thứ
năm, (Việt
Nam) biết tận dụng tối đa các cơ chế quốc tế.
Có
học giả Việt Nam xem luật pháp quốc tế và ASEAN là 2 cơ chế để kiềm chế Trung
Quốc.
Giống
như những người tí hon trong tác phẩm "Những cuộc phiêu lưu của
Gulliver" muốn trói chặt Gulliver, Việt Nam định dùng pháp lý và tổ chức
khu vực để buộc chân Trung Quốc.
Được
biết Việt Nam đã nghiên cứu các biện pháp pháp lý để giải quyết tranh chấp lãnh
thổ với Trung Quốc ít nhất được 10 năm.
Hiện
tại Việt Nam chưa kiện (Trung Quốc) ra cơ quan tài phán quốc tế, đại khái là họ
lên kế hoạch trước, rồi sẽ hành động sau.
Ngoài
ra Việt Nam đặt kỳ vọng vào ASEAN và Việt Nam là một thành viên có ảnh hưởng
trong khối, luôn luôn có nhiều tiểu xảo trong ASEAN hòng thúc đẩy khối này ngày
càng cứng rắn với Trung Quốc.
Thứ
sáu là tạo ra "mặt trận thống nhất quốc tế".
3
tháng đầu năm nay Việt Nam đã có khá nhiều trò trong lĩnh vực này. Hàng không mẫu
hạm Hoa Kỳ vừa kết thúc chuyến thăm Việt Nam;
Ấn
Độ vừa kết thúc cuộc tập trận chung 16 nước, Việt Nam là một quan sát viên tích
cực, một trong những hạng mục quan trọng của cuộc tập trận này là phong tỏa
trên biển.
Trong
tháng Hai, Hải quân Việt Nam đưa vào biên chế 2 tàu hộ vệ Gepard do Nga chế tạo;
Tháng
Giêng, Đại tướng Yamazaki Koji, Tham mưu trưởng Lực lượng Tự vệ mặt đất Nhật Bản
thăm Việt Nam, tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương mật thiết.
Ngoài
ra còn Australia, từ 2016 trở lại đây các chiến hạm Australia đã cập cảng Cam
Ranh.
Tâm
tư của Việt Nam đã lộ rất rõ:
Họ
muốn thông qua việc xây dựng quan hệ với 5 nước lớn để cân bằng với các hành động
của Trung Quốc ở Biển Đông, đó là các quan hệ Việt - Mỹ, Việt - Nhật, Việt -
Nga, Việt - Ấn và Việt - Úc.
Thứ
bảy là Việt Nam tiếp tục dùng sức mạnh mưu cầu (bảo vệ) các vùng
biển.
Lực
lượng chức năng Việt Nam đấu tranh bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
hợp pháp của Việt Nam bị Trung Quốc xâm lấn trái phép trong sự kiện giàn khoan
981 năm 2014. Ảnh trên Thời báo Hoàn Cầu.
Những
năm qua, ngân sách quốc phòng của Việt Nam tăng mạnh, từ 1,3 tỉ USD năm 2006
tăng lên 4,6 tỉ USD năm 2015, tăng trưởng 258%.
Trong
các quân binh chủng, Hải quân Việt Nam tăng trưởng mạnh nhất. Từ 2011 đến 2015,
tàu chiến nhập khẩu của hải quân Việt Nam chiếm 44% giá trị nhập khẩu quốc
phòng của Việt Nam.
Ước
tính trong vài năm tới Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì quỹ đạo tăng trưởng này.
7
điểm trên đây là tổng kết chị Đao rút ra được sau khi thỉnh giáo nhiều vị
chuyên gia (Trung Quốc) về Việt Nam. Bài này mới đề cập được đến đây, hoan
nghênh các bạn hiểu biết sâu rộng bổ sung thêm.”
Vài
lời bình luận
Thứ
nhất,
Việt Nam củng cố các công trình cơ sở hạ tầng trên quần đảo Trường Sa là nhằm mục
đích nâng cao năng lực phòng thủ và phục vụ đời sống dân sinh, hoàn toàn hợp
pháp và chính đáng trên lãnh thổ của mình.
Hơn
nữa, những công trình cơ sở hạ tầng này hoàn toàn không đe dọa đến tự do hàng hải
cũng như an ninh của các quốc gia khác.
Đây
là nhận thức chung của tất cả các nước trong và ngoài khu vực, thể hiện qua các
tuyên bố chính thức, chứ không riêng Việt Nam.
Hoạt
động này khác về bản chất so với việc Trung Quốc đảo hóa, quân sự hóa các cấu
trúc địa lý trên 2 quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, mà họ
cưỡng đoạt và chiếm đóng trái phép.
Quy
mô và tính chất các pháo đài quân sự Trung Quốc dựng lên ở Biển Đông gây lo ngại
cho phần còn lại của thế giới có lợi ích hợp pháp trong việc duy trì hòa bình, ổn
định ở Biển Đông.
Thứ
hai,
bãi Tư Chính nằm hoàn toàn trong thềm lục địa phía Nam Việt Nam, không liên
quan đến quần đảo Trường Sa và không có tranh chấp.
Mọi
hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh
tế, thềm lục địa nước mình hoàn toàn phù hợp Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển
1982.
Chúng
tôi phản đối và bác bỏ các lập luận của tác giả Bổ Nhất Đao cùng các nhà nghiên
cứu Trung Quốc về cái gọi là "vùng biển tranh chấp" trong
phần lập luận thứ 3 này.
Các
hoạt động của Việt Nam diễn ra hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục
địa hợp pháp của Việt Nam, xác lập theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển
1982 và không có tranh chấp.
Mọi
lập luận biến các vùng biển không tranh chấp thành có tranh chấp chỉ là âm mưu,
thủ đoạn hiện thực hóa đường lưỡi bò đã bị Phán quyết Trọng tài 12/7/2016 bác bỏ
một cách thuyết phục.
Thứ
ba,
việc tuyên truyền ý thức bảo vệ chủ quyền và các quyền, lợi ích hợp pháp của Việt
Nam trên Biển Đông là rất cần thiết, thường xuyên, lâu dài.
Quả
thực cá nhân người viết không dám nhận phần đánh giá cao của các học giả Trung
Quốc.
Tuy
rằng chúng ta đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, nhưng để đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi
của thực tiễn bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển
Đông, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm.
Huống
hồ Trung Quốc dựa vào nguồn lực tài chính dồi dào, họ không tiếc tiền thành lập
các viện nghiên cứu, tổ chức các hội thảo, vận động hành lang, lợi dụng mọi cơ
hội và tổ chức quốc tế để tuyên truyền cho đường lưỡi bò và cái gọi là "chủ
quyền lịch sử" trên Biển Đông đã bị Tòa trọng tài bác bỏ.
Thứ
tư,
Việt Nam có đầy đủ các bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định chủ
quyền với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việt
Nam không dựa vào các tài liệu lịch sử thuần túy, bởi đối phương vốn đủ chiêu
trò, thừa mưu mẹo để làm giả các tư liệu này, quan trọng hơn là họ tìm cách vô
hiệu hóa các hệ quy chiếu pháp lý quốc tế để bảo vệ cho lập luận "chủ
quyền lịch sử" của mình ở Biển Đông.
Các
lập luận thứ năm, thứ sáu, thứ bảy mà tác giả Bổ Nhất Đao sau khi tham vấn các
chuyên gia Trung Quốc về Việt Nam đưa ra, chúng tôi cho rằng đó là sự đề cao
thái quá có mục đích.
Chúng
tôi cho rằng các hoạt động này hoàn toàn hợp pháp, chính đáng và là một trong
những giải pháp hòa bình để tạo môi trường, thúc đẩy giải quyết các tranh chấp
trên cơ sở luật pháp, thực tiễn quốc tế.
Còn
nói về việc tăng ngân sách quốc phòng và khả năng phòng thủ, đó là việc cần phải
làm. Nếu nhìn vào quy mô và kích thước ngân sách quân sự của Trung Quốc, thì 10
nước Đông Nam Á cộng lại cũng chưa bằng một phần của họ.
Nhưng
thế mạnh của Việt Nam nằm ở chính nghĩa, với tinh thần giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh và nói phải củ cải cũng nghe, phòng thủ trong khả năng có thể và đặt trong
tổng thể chiến lược đối ngoại, đối nội chứ không phải chạy đua với Trung Quốc về
vũ khí.
7
vấn đề về chính sách của Việt Nam trên Biển Đông qua góc nhìn của các học giả Trung
Quốc cho thấy một điều rất rõ:
Trung
Quốc có cả một đội ngũ nghiên cứu, theo dõi về nhất cử nhất động của Việt Nam,
có điều họ nói ra hay không, nói ra khi nào và nói đến đâu mà thôi.
Chúng
tôi thiết nghĩ, những gì các nhà nghiên cứu Trung Quốc "xì ra" cho
tác giả Bổ Nhất Đao và Thời báo Hoàn Cầu mới chỉ là phần nổi của tảng băng
chìm.
Đây
là điều mỗi học giả, mỗi người Việt Nam cần nghiêm túc suy nghĩ về nó.
Qua
đây, chúng tôi cũng mong muốn ngày càng có nhiều tiếng nói từ các nhà nghiên cứu
Việt Nam trong cũng như ngoài nước, để giúp dư luận hiểu thêm về các vấn đề
pháp lý trên Biển Đông;
Các
xu hướng chính trị khu vực và quốc tế tác động trực tiếp đến Biển Đông và an
ninh quốc gia, tính toán của các siêu cường cũng như các bên liên quan...
Bởi
suy cho cùng, đối nội và đối ngoại đều quan trọng.
Giúp
cho dư luận người Việt trong và ngoài nước có đầy đủ thông tin và hệ quy chiếu
pháp lý cần thiết để đánh giá các sự kiện là một cách đấu tranh bảo vệ chủ quyền,
quyền và lợi ích hợp pháp hiệu quả, bởi cái hiểu đúng và đầy đủ ấy sẽ được lan
truyền rộng khắp.
Hồng
Thủy
-----------------------
Lại
Cường -
GDVN
11:49
20/03/18
"Giải
thưởng nghiên cứu về Biển Đông năm 2017" đã trao 17 tác phẩm nghiên cứu về
Biển Đông, tổng giá trị giải thưởng lên đến 330 triệu đồng.
Ngày
19/3, tại Hà Nội, Quỹ Hỗ trợ Nghiên
cứu Biển Đông đã tổ chức Lễ trao "Giải thưởng Nghiên cứu Biển
Đông năm 2017" với sự tham dự của thành viên Hội đồng Quản lý Quỹ, Hội đồng
Giám khảo, các tác giả có bài viết đoạt giải thưởng, đại diện các nhà tài trợ
Quỹ.
Trải
qua 2 vòng chấm, Ban Tổ chức đã chọn lọc và trao “Giải thưởng Nghiên cứu Biển
Đông 2017” cho 17 tác phẩm, bài nghiên cứu, công trình nghiên cứu xuất sắc nhất.
Trong
đó, 5 tác phẩm được trao giải “Báo chí về Biển Đông” (trị giá 20 triệu đồng/giải);
11
bài nghiên cứu được trao giải “Bài nghiên cứu về Biển Đông” (trong đó có 3 bài
nghiên cứu đạt Giải đặc biệt xuất sắc trị giá 20 triệu đồng/giải; 8 bài nghiên
cứu đạt Giải xuất sắc trị giá 15 triệu đồng/giải);
1
công trình nghiên cứu được trao giải “Công trình nghiên cứu Biển Đông” (trị giá
50 triệu đồng).
No comments:
Post a Comment